Thứ Tư, 30 tháng 5, 2018

An toàn tâm lý

Nelson Mandela, một trong những nhà lãnh đạo
được thế giới ngưỡng mộ.

Yếu cố cần thiết nhất để xây dựng một đội ngũ mạnh hay một tổ chức mạnh là gì? Lãnh đạo giỏi? Tinh thần đồng đội cao? Khả năng chuyên môn xuất sắc?

Các nhà nghiên cứu quản trị/tổ chức trong vài thập niên qua đã nhấn mạnh nhiều về trí tuệ cảm xúc, hay trí cảm (emotional intelligence, hay EI/EQ), như là kỹ năng cần thiết cho từng cá nhân, đặc biệt là lãnh đạo, trên cả chỉ số thông minh (intelligence quotient, hay IQ). Từng cá nhân tuy quan trọng, nhưng cái trí tuệ và sức mạnh tập thể quan trọng hơn. Vấn đề là làm sao cả cái tập thể đó được vận dụng một cách tối hảo cho mọi tình huống khi đối diện với rủi ro, thử thách, hiểm nguy?

Thời gian gần đây, yếu tố “an toàn tâm lý” (psychological safety) được xem như là lời giải của các cuộc nghiên cứu này.

An toàn tâm lý được các học giả về tổ chức (organisational scholars) đầu tiên đề cập đến vào thập niên 1960, nhưng bị chìm vào quên lãng sau đó và mãi đến thập niên 1990 mới xuất hiện trở lại và dành được sự quan tâm từ đó đến nay [1].


Lý do được quan tâm trở lại, trong lĩnh vực học thuật, như các nghiên cứu mang tính khái niệm và thực nghiệm, hay trong thực hành, như trong việc điều hành quản lý, là vì các tổ chức thời nay đều nhìn thấy tầm quan trọng của việc học hỏi và sáng tạo. 
Trong nền kinh tế tri thức, môi trường làm việc mang tính phức tạp nên đòi hỏi tính chuyên môn cao, đòi hỏi các nhân viên thuộc nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau phải cộng tác để cùng hoàn thành mục tiêu đề ra. Khi các chuyên viên cộng tác nhau trong một đội hoặc hợp tác nhau giữa các đội, thì yếu tố lãnh đạo được nêu ra. 
Người đội trưởng phải có những kỹ năng, khả năng và kinh nghiệm về quản lý, lãnh đạo nào để điều hành hiệu quả? Làm sao để giải quyết các bất đồng ý kiến giữa các thành viên đồng đội? V.v... Nhưng người đội trưởng, dù tài giỏi và cần thiết mấy, cũng không quan trọng bằng các thành viên còn lại. Mấu chốt vấn đề là làm sao để phát huy năng lực trí tuệ chung, nhất là tính sáng tạo, để tìm ra những giải đáp cho những vấn đề khó khăn hay những thử thách mà tổ chức có thể đối diện, hiện nay và tương lai?

Để làm được việc này, những nghiên cứu và phân tích trong nhiều thập niên qua cho thấy an toàn tâm lý là điều kiện tiên quyết, và ngày càng như thế bởi thay đổi xảy ra ngày càng nhanh chóng và lớn lao. 
Chỉ khi người ta cảm thấy an toàn tâm lý, không bị rủi ro cá nhân, thì người ra mới sẵn sàng đóng góp ý kiến và hành động một cách hết mình cho mục tiêu chung. 
An toàn tâm lý giúp cho người ta sẵn sàng chia sẻ thông tin và kiến thức, trình bày ý kiến giúp tổ chức cải thiện, nỗ lực phát triển các sản phẩm và dịch vụ mới, và giúp cho các đội và các tổ chức khác nhau học hỏi và hoàn thành trách nhiệm.

Tóm lại, an toàn tâm lý mô tả sự cảm nhận, của một người nào đó, về hậu quả của hành động dám mạo hiểm trong môi trường nào đó, chẳng hạn như chỗ làm.

Nghiên cứu của Google

Google, nay thuộc Alphabet, là một công ty kỹ nghệ tin học hàng đầu thế giới, có hơn 88 ngàn nhân viên hiện nay, với thu nhập chỉ sau Apple. Trong nhiều năm qua Google đã dành nhiều nỗ lực nghiên cứu làm cách nào để xây dựng các nhà quản lý xuất sắc và một đội (team) hiệu quả nhất.

Cuộc nghiên cứu đầu tiên rất thành công mang tên Dự án Oxygen tìm hiểu “yếu tố nào làm cho một người quản lý tuyệt vời?” (what makes a great manager?”). Khi bắt tay thực hiện dự án này, Google khởi điểm bằng giả thuyết rằng các nhà quản lý nếu tốt nhất chỉ là một ác nhân cần thiết, và tệ nhất là thêm một tầng hành chánh [2]. 
Từ giả thuyết này, Google điều nghiên kỹ lưỡng nhưng nhận ra rằng những đội có khả năng quản lý tài giỏi thì họ hạnh phúc hơn và hiệu năng hơn. Do đó Google công nhận rằng quản lý là quan trọng, nhưng nó không giải thích yếu tố nào làm cho người quản lý được xem là tuyệt vời?

Sau khi nghiên cứu sâu rộng thêm, Google đã đi kết đến luận rằng những nhà quản lý tuyệt vời của Google có các đức tính/hành xử sau đây. 
Một, là một huấn luyện viên giỏi (a good coach). 
Hai, ủy quyền/nhiệm và không quản lý vi mô, nhỏ nhặt. 
Ba, nỗ lực xây dựng một môi trường dung hợp, bày tỏ quan tâm đến sự thành công và phúc lợi của nhân viên. 
Bốn, làm việc hiệu quả và quan tâm đến thành quả. 
Năm, là nhà truyền thông giỏi, biết lắng nghe và chia sẻ thông tin. 
Sáu, hỗ trợ sự phát triển nghề nghiệp của nhân viên và thảo luận về hiệu suất của họ. 
Bảy, có tầm nhìn và chiến lược rõ cho đội. 
Tám, có những kỹ năng căn bản để cố vấn cho đội khi cần. Chín, cộng tác toàn diện trong toàn công ty (Google). Mười, là người mạnh dạn lấy quyết định.

Sau Dự án Oxygen, Google bắt tay vào dự án Aristotle, tên nhà triết học Hy Lạp, qua câu nói: “Tổng thể lớn hơn tổng hợp của các phần ráp lại” (The whole is greater than the sum of its parts, nghĩa là mỗi cá nhân, dù tài năng mấy, nếu cộng tác làm việc với nhau thì sẽ hiệu quả hơn tổng hợp của các cá nhân). Mục đích của dự án là tìm hiểu “yếu tố nào làm nên một đội hiệu quả tại Google?” (what makes a team effective at Google?) [3].

Trên hai năm, thực hiện hơn hai trăm cuộc phỏng vấn, điều nghiên hơn 250 đặc tính của hơn 180 đội, Google đã tìm ra được đáp án. Google ban đầu đinh ninh rằng một đội hiệu quả lý tưởng là sự kết hợp tài tình giữa kỹ năng và đặc tính cá nhân, chẳng hạn một học giả Rhodes, hai người ngoại cảm tự tin (extrovert), một kỹ sư xuất sắc tại AngularJS, một tiến sĩ Voila. Nhưng đội nghiên cứu của Google nhìn nhận mình sai lầm hoàn toàn.

Toán nghiên cứu kết luận có năm đặc tính căn bản phân biệt sự thành công hay không giữa các đội tại Google như sau.

Một, an toàn tâm lý. Các thành viên có thể mạo hiểm mà không cảm thấy bất an hay mất mặt.

Hai, nương tựa nhau. Các thành viên có thể trông cậy vào nhau để làm ra các sản phẩm tốt theo đúng thời hạn giao phó.

Ba, cơ cấu và tính minh bạch. Các mục đích, vai trò và kế hoạch thi hành rõ ràng.

Bốn, ý nghĩa công việc. Các thành viên cảm thấy những gì đang làm quan trọng đối với cá nhân họ.

Năm, ảnh hưởng công việc. Các thành viên tin tưởng nhiệt thành rằng công việc họ đang làm có quan hệ/ảnh hưởng và tạo thay đổi.

Trong tất cả năm yếu tố này, an toàn tâm lý là quan trọng nhất, là nền tảng của các yếu tố còn lại. Nguyên do? 
Phần lớn, gần như tuyệt đại đa số, con người đều lưỡng lự khi đối diện với những hành xử mang tính tiêu cực vì cho rằng người khác có thể đánh giá khả năng, ý thức và tính tích cực của mình. Đây là tính tự vệ cần thiết để một người cảm thấy an toàn trong tình huống như thế. 
Nhưng ngược lại, khi các thành viên càng cảm thấy an toàn với nhau, họ dễ dàng công nhận lỗi lầm, và sẵn sàng cộng tác và nhận lấy các vai trò mới. Điều này ảnh hưởng toàn diện về các bản đánh giá nhân viên của Google. 
Những cá nhân trong các đội mà có an toàn tâm lý cao tại Google ít khi bỏ công ty, họ dễ dàng chấp nhận và vận dụng sức mạnh của các ý kiến đa dạng từ đồng đội của mình, mang lại nhiều thu nhập, và được giới lãnh đạo Google đánh giá hiệu quả gấp hai lần bình thường.

Hệ quả và bài học cho Việt Nam

Các cuộc nghiên cứu về an toàn tâm lý của Google trong thời gian qua, của Trường Kinh doanh Harvard (Harvard Business School), cũng như của giới nghiên cứu quản trị, đã gây những ảnh hưởng lớn lao và tác động sâu xa. Tính áp dụng của nó rất rộng lớn, không chỉ trong kinh doanh mà hầu như mọi mặt phát triển của con người và xã hội.

Khi cảm thấy an toàn, người ta tiếp thu, học hỏi và sáng tạo một cách nhanh chóng và hiệu quả. Người ta sẵn sàng làm hơn những gì được trao phó, tận tuỵ hy sinh hơn những gì được yêu cầu, và cho ra những sáng kiến táo bạo, khác thường nhưng có khả năng khai thông hay tìm ra giải đáp cho những bế tắc lớn, với điều kiện họ cảm thấy thật sự an toàn. 
Còn nếu có nhiều rủi ro, đe dọa hay nguy hiểm trong môi trường hoạt động/làm việc, những người biết suy nghĩ tính toán đều không muốn tai họa xảy ra cho mình. Hay nói cách khác, chẳng ai muốn làm hơn những gì căn bản để khỏi bị “làm ơn mắc oán” cả.

Do đó để xây dựng xã hội ngày một tốt đẹp hơn, công bằng và tiến bộ hơn, quan niệm của xã hội văn minh là làm thế nào vận dụng hết những điểm tích cực của con người, của mỗi cá nhân trong toàn xã hội. 
Nói cách khác là tạo cơ hội rộng lớn và bình đẳng để mọi công dân phát huy tối đa khả năng, tiềm năng, và mọi đức tính tốt đẹp của con người. Vì thế cho nên người lãnh đạo tài giỏi là người được xem có khả năng mang lại hay khai dụng được những cái hay nhất của mỗi cá nhân trong tổ chức của mình (bring the best out of people). 
Ngược lại, người lãnh đạo tồi bại, và thất bại, là những người chỉ nhìn thấy cái xấu của người khác, và chỉ biết khai dụng cái xấu đó cho mục tiêu của họ hay của tập đoàn họ phục vụ.

Khi chúng ta hiểu được các điều căn bản này, nó giúp chúng ta có cái nhìn thiết thực hơn và khoan dung hơn về con người, trong bối cảnh gia đình, tập thể/cộng đồng, quốc gia và toàn thể nhân loại.

Để có được cái nhìn khoan dung và thiết thực, có lẽ chúng ta cần hiểu rõ và chấp nhận rằng con người vốn không hoàn hảo. Có lẽ tạo hóa là thế. Thiên tài hay nhân tài cũng có lắm bất toàn. Ai trong chúng ta mà không ngưỡng phục thiên tài khoa học Stephen Hawking trong cơ thể mỏng manh yếu đuối như ngọn nến trước gió.

Những người tài giỏi hay ảnh hưởng lớn đều có những điểm mạnh và điểm yếu của họ. Ngay cả những người có vẻ mạnh mẽ phi thường cũng có điểm yếu trong cuộc đời của họ. 
Cũng từng ít hay nhiều thất bại, chán nản, muốn bỏ cuộc trước những khó khăn thử thách tưởng chừng không thể vượt qua. Những lãnh đạo quốc gia được thế giới ngưỡng phục trong lịch sử nhân loại, như Abraham Lincoln, Mohandas Gandhi hay Nelson Mandela, cũng đều là con người bằng xương bằng thịt và từng trải nghiệm như thế. 
Không một ai hoàn toàn không biết đau đớn khi bị hành hạ thể xác, tinh thần hay tâm lý. Không một ai đạn bắn không xuyên (bulletproof). Không một ai khôn ngoan xuất chúng để hiểu biết tất cả, có khả năng tiên tri hay không hề lầm lỗi. Không một ai không có những bất an/tổn thương tâm lý cả (psychological vulnerability).

Những người tử tế, chân thật, nhạy cảm và biết thương yêu người chung quanh cũng thường là những người dễ bị tổn thương nhất.

Khi hiểu rằng mỗi chúng ta đều có bất an và tổn thương tâm lý, chúng ta sẽ dễ có sự thông cảm và đồng cảm cho nhau, trong gia đình cũng như trong một cộng đồng dân tộc.

Do đó để xây dựng an toàn tâm lý cho nhu cầu cá nhân hay tập thể của mình, chúng ta cần thay đổi tâm lý hay thói quen cố hữu để xây dựng ý thức mới: 
1) tìm người cộng tác thay vì biến họ thành thù nghịch; 
2) xem người khác là những con người có nhu cầu như mình, muốn được tôn trọng, vui vẻ, hạnh phúc, có gia đình êm ấm, có cảm giác vui buồn, hy vọng v.v…; 3) dự đoán phản ứng và chuẩn bị đáp trả một cách khôn khéo để thuyết phục ; 
4) thay vì đổ lỗi cho người khác thì bày tỏ sự tò mò của mình; 
5) luôn hỏi người ta nghĩ gì về mình sau khi hoàn tất công việc; 
6) đo lường mức độ an toàn tâm lý một cách định kỳ [4]. Nghĩa là phải có đầu óc phóng khoáng, cởi mở, không kỳ thị, không thiên vị, và sẵn sàng lắng nghe mọi ý kiến và sáng kiến mới thay vì quá nhiều định kiến.

Nếu người lớn, nghĩa là người đã có ít nhiều kinh nghiệm đau thương trong cuộc đời và làm cho họ ít nhiều bị chai lì hơn chút, mà còn dễ bị tổn thương tâm lý, thì trẻ con sẽ dễ bị tổn thương hơn rất nhiều. 
Do đó trong các nền văn minh nhân bản, môi trường giáo dục là nền tảng quan trọng nhất cho việc hướng dẫn, dạy dỗ và hình thành những mầm non tốt đẹp cho xã hội mai sau. 
Không xây dựng và chuẩn bị chu đáo và tối ưu cho thế hệ hôm nay thì làm sao mong đợi sự lãnh đạo khôn ngoan và hiệu quả về sau này! Trong môi trường giáo dục khai phóng và nhân bản này, kiến thức chỉ là phần phụ. 
Phần chính là nâng đỡ, hướng dẫn, khuyến khích và đào tạo những thế hê trẻ phát huy tinh thần tự lập, tự tin, tự giác; hiểu mình, hiểu người và hiểu môi trường chung quanh; hiểu được quan hệ phức tạp và đa nguyên của con người và xã hội; và biết suy nghĩ, phân tích, nhận định, đánh giá và truyền đạt ý tưởng để hiểu nhau và tìm sự thông cảm và đồng cảm. 
Nói cách khác, một con người chỉ trở thành một công dân hữu ích tối đa cho xã hội nếu cá nhân đó được đào tạo để biết suy nghĩ như thế nào chứ không chỉ suy nghĩ cái gì (not just what to think but mainly how to think). 
Nhưng điều kiện thiết yếu để xây dựng các mầm non như thế là một môi trường mà tất cả các em cảm thấy an toàn để tham gia, lên tiếng và trình bày suy nghĩ của mình mà không bị ai lấn áp, hiếp đáp hay hành hạ, nhất là các thầy cô dạy dỗ hướng dẫn mình.

Nếu môi trường giáo dục quan trọng như thế thì môi trường gia đình có lẽ quan trọng không kém. Bởi vì khi còn ở tuổi vị thành niên, ngoài môi trường học đường, thời gian với gia đình và sự ảnh hưởng của gia đình trong việc uốn nắn hình thành nên những tư cách và nhân cách của trẻ con có nhiều tác động hơn so với bên ngoài xã hội. 
Môi trường gia đình trong các nền văn minh nhân bản cũng đặt nặng yếu tố an toàn tâm lý cho sự phát triển tốt đẹp và toàn diện của con người. Môi trường như thế được luật pháp bảo vệ tối đa, vì Hiệp ước về Quyền của Trẻ con (Convention on the Right of the Child) đã được phần lớn thế giới công nhận và được đưa vào luật quốc gia của họ [5]. 
Trong trường hợp Việt Nam, những hình thức la mắng, chửi rủa, đánh đập và trừng phạt nặng nề thay vì sử dụng lý trí và lý lẽ để thuyết phục đã trở thành thói quen bao đời nay, do đó cần được nhận thức và chỉnh sửa sớm. 
Mặc dầu cha mẹ Việt Nam nói chung rất thương con, nhưng tâm lý “thương cho roi cho vọt”, hay các truyền thống và giá trị hủ lậu, kể cả nhiều quan niệm trong tư tưởng của Khổng Giáo, đã là tư duy vẫn còn ngự trị trong nền văn hóa Việt Nam và cung cách hành xử bấy lâu nay. 
Những tư duy và cách thức như thế chỉ tạo thêm những tâm hồn đầy oan ức và phẫn nộ. Bạo lực và bạo ngược từ đó leo thang và không lối thoát. Khi một người không thể dùng lý lẽ để nói chuyện, thuyết phục hay giải quyết vấn đề với nhau thì giải pháp còn lại là đoạn tuyệt hoặc bạo lực.

Có thể nói ngoại trừ một thiểu số nhỏ ý thức, còn lại đại đa số gia đình, học đường và xã hội Việt Nam hiện nay thể hiện tư duy này. Nó lại được duy trì và củng cố bằng một loại văn hóa chính trị độc hại nhất trong lịch sử Việt Nam.

Vài kết luận

Khi bị chỉ trích, khiêu khích hay đe dọa tính mạng, phần của não có tên là amygdala, đóng vai trò như cái chuông của bộ não, nhận diện mối đe dọa như sống chết, nên la lên cần phải “chiến đấu hay chạy trốn” (fight or flight response). Trong tình trạng đó, Amygdala chiếm cứ phần cao trung của bộ não, điều khiển “hành động trước, suy nghĩ sau”, và đóng băng phần não trách nhiệm về lý luận phân tích.

Khi mối đe dọa sống còn của con người trong xã hội đó quá lớn và quá lâu, vì an toàn cho mình và cho gia đình mình, là điều dễ hiểu, thì người ta cứ theo phản ứng tự nhiên là hành động trước, suy nghĩ sau. Qua thời gian, bộ não được cài đặt chương trình như thế, và vận hành như thế, một cách vô ý thức.

Xã hội như thế dù có phát triển kinh tế hay vật chất đến bao nhiêu nữa, sự phát triển toàn diện của con người cũng bị chập chững, méo mó và què quặt.

Khi mọi người trong xã hội không có an toàn tâm lý để nghĩ đến cái gì sâu sắc, lâu dài, vững ổn mà phần lớn chỉ toàn nghĩ đến những gì ngắn hạn, chụp giựt và nhỏ nhen, chỉ nghĩ đến sống còn, thì hậu quả là một xã hội băng hoại về niềm tin, đạo đức và thang giá trị chung, và sự leo thang của bạo lực và cường quyền.

Thực trạng của đất nước Việt Nam hôm nay và trong nhiều thập niên qua cho thấy nhu cầu thay đổi xã hội và văn hóa một cách sâu sắc, cấp bách và toàn diện.

Và nó càng cấp bách hơn nữa khi đất nước đang đứng trước những thử thách và hiểm họa quá lớn lao trong khi thế hệ trẻ hôm nay - những người lãnh đạo đất nước trong tương lai - đang tiếp tục được uốn nắn hay đào tạo bằng những chủ trương đầy lừa mị và nguy hiểm.

Phạm Phú Khải

Úc Châu, 28/05/2018

Tài liệu tham khảo:

1. Edmondson, A.; Lei, Z. (2014). "Psychological Safety: The History, Renaissance, and Future of an Interpersonal Construct". Annual Review of Organizational Psychology and Organizational Behavior; pages 23–43.

2. Google, “Learn about Google's manager research”. Quan niệm này mô phỏng tư tưởng của Thomas Paine khi ông cho rằng một chính quyền tốt nhất chỉ là điều ác cần thiết, và trong tình trạng tệ nhất, là một điều không thể chịu đựng được.

3. Google, “Identify dynamics of effective teams”, Accessed on 27 May 2018.

4. Laura Delizonna, “High-Performing Teams Need Psychological Safety. Here’s How to Create It”, Harvard Business Review, 24 August 2017. Or Greg Satell, “4 Ways to Build an Innovative Team”, Harvard Business Review, 13 February 2018.

5. United Nations Human Rights, Office of the High Commissioner, “Convention on the Rights of the Child”, được chấp thuận ngày 20 tháng 11 năm 1989, hiệu lực ngày 2 tháng 9 năm 1990.

Thứ Hai, 21 tháng 5, 2018

2 trường phái chính trong điều hành kinh tế

27.12.20
Duy lý, hành vi và trí tuệ nhân tạo AI 
Dựa trên nền tảng toán lý hóa thì cách mạng công nghiệp ra đời. Công nghiệp hóa dẫn đến sự thắng thế của chủ nghĩa duy lý và các lý thuyết về kinh tế đều giải thích vấn đề dựa trên cột trụ này. Duy lý cũng dẫn đến quan niệm tập trung chỉ huy, tập trung quản lý. Càng tập trung càng tốt và khuynh hướng nhà nước mạnh thắng thế. Vào những năm 60 thì các nhà tâm lý học quan sát hành vi của con người mới phát hiện ra khối cái duy lý không giải quyết được và thậm chí là sai toét. 
 Họ áp dụng hành vi vào kinh tế vi mô và thành công rực rỡ. Phe nhà nước nhỏ lại thắng thế cổ vũ cho sự phân quyền, tản quyền. 
 Anh Mỹ xài hành vi trong khi LX vẫn bám mô hình cũ nên toang. 
Tưởng rằng hành vi thắng luôn ai dè công nghệ thông tin phát triển lẹ quá. 
Lần lượt dữ liệu lớn, trí thông minh nhân tạo xuất hiện làm năng lực quản lý tập trung lại vọt lên mà TQ là 1 ví dụ. Trong dịch Covid họ kiểm soát rất tốt và nhờ AI mà khả năng quản lý giám sát tập trung của họ rất cao. 
 Bạn nghĩ gì khi mỗi người đều được cấy chip. Khi đó họ kiểm soát, phân tích được mọi thứ từ sức khỏe, khả năng, hành vi, hoạt động...và tối ưu hóa chúng ?
.........
Phương Đông xưa có câu: 
Nhất sỹ nhì nông
Hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sỹ
Hay cách nói khác: có thực mới vực được đạo
Lần hồi phát triển thành:
Phi nông bất ổn
Phi công bất phú
Phi thương bất hoạt
Phi trí bất hưng
Mà người ta hay gán cho Lê Quý Đôn
Đỉnh điểm của nó là 4 trụ cột: trí phú địa hào. 4 trụ này vững chắc, phát triển thì kinh tế phát triển. 4 cột trụ gãy đổ thì hết gạo chạy rông.
Đây là lối tư duy toàn cục của người phương Đông đặc trưng bởi nhân quả và tương sinh tương khắc kiểu sinh lão bệnh tử.
Đáng tiếc kinh tế phương Đông kém dần. Những nước nào theo mô hình phương Tây mới phát triển được nên tiếng nói này không có trọng lượng.
Bên Tây cũng chia ra làm 2 trường phái chính
- Phái kinh tế tự do: nguyên tắc chính là để thị trường hoạt động tự nhiên, chính phủ làm càng ít càng tốt. Đại diện chính như Adam Smith, Milton Friedman, Hayek...kết quả của toàn cầu hóa, thương mại tự do là tư tưởng của nhóm này. Những người nổi bật gần đây như M.Thatcher, R. Reagan...
- Phái Keynes: chủ trương phải có can thiệp của nhà nước, có những đỉnh cao chỉ huy để điều tiết, vận hành kinh tế. Phái này lý luận  trong nền kinh tế thì tính thanh khoản là quan trọng nhất. Đại khủng hoảng Mỹ 1929-1933 không xảy ra nếu bơm tiền ra đủ để duy trì thanh khoản. Gần đây thời Obama khủng hoảng nợ dưới chuẩn cũng chứng kiến việc bơm tiền giữ thanh khoản. Với mục đích như thế phái này chủ trương không sợ nợ công. 
Phái này chịu ảnh hưởng mạnh của kế hoạch hóa kiểu Stalin nên sau sự sụp đổ của LX thì phái kinh tế tự do lấn sân hẳn.
Điều thú vị là Keynes có đưa ra phương án giải quyết thâm hụt thương mại giữa 2 quốc gia thì hiện nay chiêu này Trump đang áp dụng để đấu với TQ.
VD như VN thì dấu ấn Keynes đang rất rõ ràng: duy trì đầu tư công cao, duy trì thanh khoản cao từ đó giá tài sản như bđs, ck lên cao để hỗ trợ phát triển kinh tế. Pha 2 sẽ là tăng tiền lương...
Tóm lại, để hiểu kinh tế VN hãy đọc Keynes cho kỹ.
Từ 2 trường phái này mới thấy kiểu Tây nhìn chi tiết. Thực ra nền kinh tế nào cũng vận hành theo chu kỳ giống như bên Á đông quan niệm về sinh lão bệnh tử. 
Khi khỏe mạnh thì phái kinh tế tự do thắng thế.
Khi bịnh thì phái Keynes phát huy sức mạnh.
Khi phái Keynes trở nên cồng kềnh quan liêu thì phái tự do lại phất cờ.
Nhưng đó lại là nghệ thuật rồi, ra ngoài việc tính toán hàng ngày của kinh tế gia.
Tham khảo
Economist
23-8-18
Những người lưu vong chiến đấu trở lại
Hayek, Popper và Schumpeter đã xây dựng một phản ứng đối với chế độ độc tài
Cuộc sống và danh tiếng của họ bị phân tán, nhưng ý tưởng của họ bắt nguồn từ chấn thương của nơi sinh chung của họ
Khi cuộc chiến tranh thế giới thứ hai diễn ra, giới trí thức phương Tây tự hỏi liệu nền văn minh có thể phục hồi hay không. George Orwell, người xuất sắc nhất trong số những người bi quan, đã viết "Animal Farm" và bắt đầu làm việc trên "1984", đã chứng kiến ​​tương lai là "một dấu ấn khởi động trên khuôn mặt con người - mãi mãi". Trong số những người lạc quan là ba người lưu vong của Viennese, người đã khởi xướng một cuộc chiến chống lại chủ nghĩa độc tài. Thay vì tập trung, họ ủng hộ sức mạnh khuếch tán, cạnh tranh và tự phát. Ở Massachusetts Joseph Schumpeter đã viết “Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội và dân chủ”, xuất bản năm 1942. Ở New Zealand, Karl Popper đã viết “The Open Society and Enemies” (1945). Friedrich Hayek viết “Con đường đến Serfdom” (1944) ở Anh.
Vienna, ngôi nhà nguyên thủy của họ, đã bị tàn phá. Năm 1900 nó là thủ đô của chế độ quân chủ Habsburg, một đa ngôn, đế chế khá tự do. Trong ngắn hạn nó phải đối mặt với hai cuộc chiến tranh thế giới, sự sụp đổ của đế quốc, chủ nghĩa cực đoan chính trị, sáp nhập của Đức Quốc xã và đồng minh chiếm đóng. Graham Greene đến thăm vào năm 1948 và mô tả viên ngọc quý của Danube là một "thành phố ảm đạm, ảm đạm".
Chiến tranh và bạo lực "phá hủy thế giới mà tôi đã lớn lên", Popper nói. Schumpeter coi Áo chỉ là một "xác tàu nhỏ của một nhà nước". Hayek, thời hoàng kim của Vienna nói: “Tất cả những gì đã chết rồi.
Tuy nhiên, thành phố đã định hình chúng. Giữa những năm 1890 và những năm 1930, nó là một trong những nơi hẻo lánh nhất trên thế giới. Sigmund Freud đi tiên phong trong phân tâm học. Vòng tròn các nhà triết học Vienna tranh luận về logic. Trường kinh tế học của Áo bị vật lộn với các thị trường; Ludwig von Mises đã có những đột phá về vai trò đầu cơ và cơ chế giá cả. Von Mises cố vấn Hayek, người anh em họ của nhà triết học Ludwig Wittgenstein, người đã đi học với Adolf Hitler, người đã đứng ở Heldenplatz năm 1938 để chào đón “sự nhập cư của quê hương tôi vào Đức quốc xã”.
Ba nhà tư tưởng thời chiến có những nền tảng khác nhau. Schumpeter là một nhà thám hiểm rực rỡ sinh ra trong một gia đình Công giáo tỉnh. Gia đình của Popper là người trí thức và có nguồn gốc Do Thái; Hayek là con trai của một bác sĩ. Nhưng họ có kinh nghiệm chung. Cả ba đều tham dự Đại học Vienna. Mỗi người đã bị cám dỗ, và sau đó bị đẩy lùi, bởi chủ nghĩa xã hội; Schumpeter là bộ trưởng tài chính trong một chính phủ xã hội chủ nghĩa. Ông cũng mất tài sản của mình trong một sự sụp đổ của ngân hàng vào năm 1924. Sau đó ông rời Đức, và sau khi vợ ông qua đời, di cư sang Mỹ năm 1932. Hayek rời Vienna cho Trường Kinh tế London vào năm 1931. Popper bỏ trốn Áo đúng lúc, vào năm 1937.
Mỗi người gặp khó khăn bởi sự tự mãn của các nước Anglo-Saxon rằng chủ nghĩa độc tài không bao giờ có thể xảy ra với họ. Tuy nhiên, dấu hiệu cảnh báo rất nhiều. Cuộc khủng hoảng vào những năm 1930 đã khiến cho sự can thiệp của chính phủ dường như được mong đợi đối với hầu hết các nhà kinh tế học. Bây giờ Liên Xô là một đồng minh thời chiến, và những lời chỉ trích về chế độ khủng bố của nó đã bị cau mày. Có lẽ đáng lo ngại nhất, trong cuộc chiến tranh Anh và Mỹ đã mang lại quyền lực tập trung và một mục đích tập thể duy nhất: chiến thắng. Ai có thể chắc chắn rằng máy chỉ huy và điều khiển này sẽ bị tắt?
Hayek và Popper là bạn nhưng không thân thiết với Schumpeter. Những người đàn ông không hợp tác. Tuy nhiên, một bộ phận lao động đã nổi lên. Popper tìm cách làm nổ tung nền tảng trí tuệ của chủ nghĩa độc tài và giải thích cách suy nghĩ tự do. Hayek đặt ra để chứng minh rằng, để được an toàn, quyền lực kinh tế và chính trị phải được khuếch tán. Schumpeter cung cấp một phép ẩn dụ mới để mô tả năng lượng của một nền kinh tế thị trường: sự hủy diệt sáng tạo.
Những năm khách sạn
Bắt đầu với Popper. Ông đã quyết định viết "The Open Society" sau khi Hitler xâm lược Áo và mô tả nó là "nỗ lực chiến tranh của tôi". Nó bắt đầu với một cuộc tấn công vào "chủ nghĩa lịch sử", hoặc các lý thuyết lớn ăn mặc như luật pháp của lịch sử, mà làm cho những lời tiên tri sâu rộng về thế giới và ước nguyện cá nhân bên lề. Plato, với niềm tin của mình trong một thứ bậc Athens cai trị bởi một tầng lớp, được clobbered đầu tiên. Siêu hình học của Hegel và sự khăng khăng của ông rằng nhà nước có tinh thần riêng của nó bị bác bỏ là “không thể hiểu lầm”. Popper đưa ra một phiên điều trần thông cảm với phê phán chủ nghĩa tư bản của Marx, nhưng xem những dự đoán của ông tốt hơn một chút so với tôn giáo của bộ lạc.  
Năm 1934, Popper đã viết về phương pháp khoa học, trong đó các giả thuyết là tiên tiến và các nhà khoa học tìm cách làm sai lệch chúng. Bất kỳ giả thuyết nào còn lại là một loại kiến ​​thức. Khái niệm chân lý có điều kiện, khiêm tốn này tái diễn trong “Xã hội mở”. Popper lập luận: “Chúng ta phải phá vỡ thói quen tôn trọng những người đàn ông vĩ đại”. Một xã hội lành mạnh có nghĩa là một sự cạnh tranh cho các ý tưởng, chứ không phải là định hướng trung tâm, và tư duy phê phán xem xét các sự kiện, không phải ai đang trình bày chúng. Trái ngược với tuyên bố của Marx, chính trị dân chủ không phải là một trò hề vô nghĩa. Nhưng Popper nghĩ rằng sự thay đổi chỉ có thể thực hiện thông qua thử nghiệm và chính sách từng phần, không phải là những giấc mơ không tưởng và các kế hoạch quy mô lớn được thực hiện bởi một tầng lớp toàn diện.
Hayek chia sẻ quan điểm của Popper về kiến ​​thức của con người như đội ngũ và phân tán. Trong "Con đường đến Serfdom", ông làm cho một điểm hẹp tàn nhẫn: rằng tập thể, hoặc khao khát cho một xã hội với một mục đích chung bao quát, vốn đã sai lầm và nguy hiểm để tự do. Sự phức tạp của nền kinh tế công nghiệp có nghĩa là "không thể cho bất kỳ người nào để khảo sát nhiều hơn một lĩnh vực hạn chế". Hayek xây dựng dựa trên cơ chế giá của von Mises về cơ chế giá, tranh luận rằng nếu không có chủ nghĩa xã hội thì không có cách nào để phân bổ nguồn lực và hòa giải hàng triệu sở thích cá nhân. Bởi vì nó không thể đáp ứng được sự đa dạng rộng lớn của mong muốn của mọi người, một nền kinh tế kế hoạch tập trung bị ép buộc một cách bẩm sinh. Bằng cách tập trung quyền lực kinh tế, nó tập trung quyền lực chính trị. Hayek lập luận, một nền kinh tế và chính trị cạnh tranh là "hệ thống duy nhất được thiết kế để giảm thiểu bởi phân cấp quyền lực được thực hiện bởi người đàn ông trên người đàn ông". Dân chủ là một "thiết bị để bảo vệ" tự do.
Schumpeter là một câu đố. (Trong lịch sử của ông về chủ nghĩa neoliberal, Daniel Stedman Jones chọn von Mises là nhà tư tưởng người Viennese thứ ba của ông.) Cuốn sách trước đó của ông, một cuốn sách về lịch sử chu kỳ kinh doanh, đã lọt vào những năm 1930. Bây giờ là thời trang để mô tả sự theo dõi của ông, “Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội và dân chủ”, là một trong những tác phẩm vĩ đại nhất của thế kỷ 20. Nhưng nó có thể turgid và long-winded; các bộ phận được dành riêng cho lời tiên tri của loại Popper nghĩ hạt. Sự tranh cãi của Schumpeter rằng chủ nghĩa xã hội cuối cùng sẽ thay thế chủ nghĩa tư bản - bởi vì chủ nghĩa tư bản đã gây mê cho các acolytes của chính nó - đôi khi được cho là lưỡi-trong-má. Tuy nhiên, giống như một cái nugget vàng giữa bùn, cuốn sách chứa một ý tưởng rực rỡ về cách chủ nghĩa tư bản thực sự hoạt động, bắt nguồn từ quan điểm của doanh nhân, chứ không phải quan liêu hay nhà kinh tế học.
Cho đến khi John Maynard Keynes xuất bản cuốn “Lý thuyết chung” vào năm 1936, các nhà kinh tế không thực sự quan tâm đến chu kỳ kinh tế. Schumpeter nhấn mạnh một loại chu kỳ khác: một chu kỳ dài hơn của sự đổi mới. Doanh nhân, được thúc đẩy bởi triển vọng lợi nhuận độc quyền, sáng tạo và thương mại hóa các sản phẩm mà truy tìm tiền tố của họ. Sau đó, họ lần lượt bị trả về. Điều này "lâu năm gale" của sinh và tử, không phải là kế hoạch của các nhà quy hoạch, là cách tiến bộ công nghệ được thực hiện. Chủ nghĩa tư bản, trong khi bất bình đẳng, là năng động. Các công ty và chủ sở hữu của họ chỉ tận hưởng các cửa sổ giới hạn lợi thế cạnh tranh. “Mỗi lớp giống như một khách sạn,” Schumpeter đã viết trước đó; "Luôn luôn đầy đủ, nhưng luôn luôn của những người khác nhau". Có lẽ anh ta đang nhớ lại chuyến đi hoang dã của mình trong ngành ngân hàng của Vienna.
Kết hợp với nhau, vào những năm 1940 Hayek, Popper và Schumpeter đưa ra một cuộc tấn công cơ bắp về chủ nghĩa tập thể, chủ nghĩa toàn trị và chủ nghĩa lịch sử, và sự phục hồi lại đức hạnh của nền dân chủ và thị trường tự do. Chủ nghĩa tư bản không phải là động cơ cho việc bóc lột ấm áp (như những người theo chủ nghĩa Mác), cũng không phải là một đầu sỏ chính trị, cũng không phải là một con đường cao để khủng hoảng. Kèm theo sự cai trị của pháp luật và dân chủ, đó là cách tốt nhất để các cá nhân giữ lại quyền tự do của họ.
Serfdom xem xét lại
Việc tiếp nhận công việc của họ rất đa dạng. Popper vật lộn để có được cuốn sách của mình được xuất bản (nó dài và giấy vẫn được phân bổ). Đến năm 1947 Schumpeter được ca ngợi như một kiệt tác; danh tiếng bị đánh đập của anh tăng vọt. Tác phẩm của Hayek có ít tác động cho đến khi nó xuất hiện trong Reader's Digest in America, biến anh thành cảm giác qua đêm ở đó. Và, theo thời gian, con đường của ba người đàn ông phân kỳ. Popper, người chuyển đến Anh vào năm 1946, trở lại tập trung vào khoa học và kiến ​​thức. Schumpeter qua đời vào năm 1950. Hayek chuyển đến Michigan, trở thành một ngôi sao sáng giá của Trường Kinh tế thị trường Chicago và một nhà phê bình chê bai của tất cả chính phủ.
Nhưng tầm vóc kết hợp của họ đã tăng lên. Vào những năm 1970, chủ nghĩa Keynes và quốc hữu hóa đã thất bại, dẫn đầu một thế hệ các nhà kinh tế và chính trị gia mới, bao gồm Ronald Reagan và Margaret Thatcher, để nhấn mạnh thị trường và cá nhân. Sự sụp đổ của Liên Xô trong thập niên 1990 đã chứng minh sự tấn công của Popper về sự ngu xuẩn của các đề án lịch sử vĩ đại. Và sự tái phát triển liên tục của Thung lũng Silicon, từ máy tính lớn và PC tới internet và điện thoại di động, đã chứng minh niềm tin của Schumpeter đối với các doanh nhân.
Ba người Áo dễ bị những lời chỉ trích phổ biến. Sự tập trung hỏa lực trí tuệ của họ trên ý thức hệ cánh tả (chứ không phải chủ nghĩa phát xít) có vẻ bị lệch. Schumpeter đã tự mãn về sự nổi dậy của chủ nghĩa phát xít; nhưng đối với Popper và Hayek, sự tàn phá được phát minh bởi chủ nghĩa phát xít là điều hiển nhiên. Cả hai lập luận rằng chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa phát xít có nguồn gốc chung: niềm tin vào một số phận tập thể; niềm tin rằng nền kinh tế nên được marshalled đến một mục tiêu chung và rằng một tầng lớp tự chọn nên cung cấp cho các đơn đặt hàng.
Một lời chỉ trích khác là họ đặt quá ít sự chú ý vào việc xoa dịu sự tàn phá của thị trường, đặc biệt là do sự thất nghiệp của thất nghiệp trong những năm 1930. Thực tế, Popper rất quan tâm đến điều kiện của người lao động; trong “Hiệp hội mở”, ông liệt kê các quy định lao động được chấp thuận tại chỗ kể từ khi Marx viết về những đứa trẻ bị ốm trong các nhà máy. Ông nghĩ các chính sách thực dụng có thể dần dần cải thiện rất nhiều. Vào những năm 1940, Hayek trở nên ôn hòa hơn sau này, viết rằng "tối thiểu lương thực, nơi trú ẩn và quần áo, đủ để bảo vệ sức khỏe và khả năng làm việc, có thể yên tâm với mọi người". Chu kỳ kinh tế là "một trong những vấn đề nghiêm trọng nhất" của thời đại. Schumpeter cho thấy ít dấu hiệu của lòng bi mẫn nhưng lại vô cùng mâu thuẫn về tác động xã hội của sự hủy diệt sáng tạo.
Ngày nay người Áo có liên quan hơn bao giờ hết. Dân chủ đang cứng rắn ở Trung Quốc. Dân chủ đang rút lui ở Thổ Nhĩ Kỳ, Philippines và các nơi khác. Những người theo chủ nghĩa dân túy bắt nguồn từ châu Mỹ và châu Âu: ở Vienna, một đảng có nguồn gốc phát xít nằm trong liên minh cầm quyền. Cả ba người sẽ bị xáo trộn bởi sự phân rã của khu vực công ở phương Tây. Thay vì một cuộc thi ý tưởng, có sự phẫn nộ của bộ lạc phương tiện truyền thông xã hội, sự cuồng nhiệt của cánh tả trên các cơ sở của Mỹ và sự sợ hãi và thông tin sai lệch ở bên phải.
Cùng nhau bộ ba tỏa sáng một ánh sáng về sự căng thẳng giữa tiến bộ tự do và kinh tế, bây giờ trở nên trầm trọng hơn bởi công nghệ. Vào những năm 1940, Hayek và Popper đã có thể tranh luận rằng sự tự do và hiệu quả của cá nhân chính là những cái giường ngủ. Một xã hội phi tập trung, miễn phí phân bổ các nguồn lực tốt hơn các nhà hoạch định, những người chỉ có thể đoán được kiến ​​thức phân tán giữa hàng triệu cá nhân. Ngày nay, ngược lại, hệ thống hiệu quả nhất có thể là một hệ thống tập trung. Dữ liệu lớn có thể cho phép các công ty công nghệ và chính phủ "nhìn thấy" toàn bộ nền kinh tế và phối hợp nó hiệu quả hơn nhiều so với các quan chức Liên Xô.
Schumpeter nghĩ độc quyền là những lâu đài tạm thời bị thổi bay bởi những đối thủ mới. Các elite kỹ thuật số ngày nay dường như đã cố thủ. Popper và Hayek có thể đang chiến đấu để phân cấp internet, để các cá nhân sở hữu dữ liệu và bản sắc riêng của họ. Trừ khi quyền lực được phân tán, họ sẽ chỉ ra, nó luôn luôn nguy hiểm.
Economist
6-9-18
Rousseau, Marx và Nietzsche
Các tiên tri của sự tiến bộ không lường trước
Những điều khủng khiếp đã được thực hiện trong tên của họ

LIBERALISM là một nhà thờ rộng lớn. Trong loạt bài này, chúng tôi đã thay đổi từ những người tự do như Robert Nozick sang những người can thiệp như John Maynard Keynes. Các nhà chính trị nhỏ như Friedrich Hayek đã cọ xát vai với các nhà thực dụng như John Stuart Mill.
Nhưng có giới hạn. Tóm tắt cuối cùng của chúng tôi tìm cách làm sáng tỏ định nghĩa của chủ nghĩa tự do bằng cách thiết lập nó đối lập với một khía cạnh cụ thể của tư tưởng của ba người chống tự do: Jean-Jacques Rousseau, một siêu sao của Giác ngộ Pháp; Karl Marx, một người cộng sản cách mạng Đức có từ thế kỷ 19; và Friedrich Nietzsche, 30 tuổi và là một trong những nhà bất đồng chính kiến ​​ca Marx. Mi loi có mt ý tưởng rng ln và khác bit. Nhưng tt c h đều bác b quan đim t do v tiến b.
Tự do tin rằng mọi thứ có xu hướng trở nên tốt hơn. Sự giàu có phát triển, khoa học làm sâu sắc thêm sự hiểu biết, sự lan truyền khôn ngoan và xã hội được cải thiện. Nhưng những người tự do không phải là Pollyannas. Họ đã chứng kiến ​​s Giác ng đã dn đến s biến động ca cuc cách mạng Pháp và khủng bố giết người đã tiêu thụ nó như thế nào. Tiến trình luôn bị đe dọa.
Và do đó, những người tự do đặt ra để xác định các điều kiện cho sự tiến bộ sắp xảy ra. Họ tin rằng lập luận và tự do ngôn luận thiết lập ý tưởng tốt và tuyên truyền họ. Họ từ chối nồng độ quyền lực bởi vì các nhóm thống trị có xu hướng lạm dụng đặc quyền của họ, đàn áp người khác và phá hoại những lợi ích chung. Và họ khẳng định phẩm giá cá nhân, có nghĩa là không ai, tuy nhiên họ chắc chắn, có thể buộc những người khác từ bỏ niềm tin của họ.
Theo những cách khác nhau của họ Rousseau, Marx và Nietzsche đã từ chối tất cả những ý tưởng này. Rousseau nghi ngờ rằng tiến bộ diễn ra ở tất cả.Marx nghĩ rằng sự tiến bộ được phong chức, nhưng nó được tạo ra bởi cuộc đấu tranh và cách mạng. Nietzsche lo sợ rằng xã hội đang giảm dần vào chủ nghĩa hư vô, nhưng kêu gọi người anh hùng übermensch trong mỗi người là người sùng bái của nó r. Những người đến sau họ đã làm những điều khủng khiếp trong tên của họ.
Rousseau (1712-78) là người bi quan đơn giản nhất. David Hume, Voltaire, Denis Diderot và những người đương thời khác của Rousseau tin rằng sự Khai sáng có thể bắt đầu đặt nhiều sai lầm của xã hội. Rousseau, người trong thời gian trở thành kẻ thù cay đắng của họ, nghĩ rằng nguồn gốc của những sai lầm đó chính là xã hội.
Trong "Một bài diễn văn về sự bất bình đẳng", ông giải thích rằng loài người thật sự chỉ tự do trong trạng thái tự nhiên. Có khái niệm về sự bất bình đẳng là vô nghĩa bởi vì con người nguyên thuỷ là đơn độc và không có ai nhìn lên hoặc xuống. Sự thối nát trong khi một người đầu tiên rào chắn một số vùng đất và tuyên bố: "Đây là của tôi". "Bình đẳng biến mất, tài sản đã được giới thiệu, lao động trở nên cần thiết, và các khu rừng rộng lớn thay đổi để mỉm cười những cánh đồng đã được tưới nước với mồ hôi của đàn ông, nơi nô lệ và nghèo đói sớm được nhìn thấy để nảy mầm và phát triển cùng với các loại cây trồng."
Triết lý chính trị của Rousseau là một nỗ lực để đối phó với sự hồi quy của xã hội từ trạng thái tự nhiên nguyên sơ. Ông mở ra "Hợp đồng xã hội" với một tuyên bố sụp đổ: "Con người được sinh ra tự do, và ở khắp mọi nơi anh ta ở trong chuỗi." Nhân loại là tự nhiên tốt, nhưng xã hội chính trị làm hỏng anh ta. Trật tự xã hội không đến từ thiên nhiên, nó được thành lập trên các công ước. Hợp đồng xã hội đặt ra để hạn chế thiệt hại.
Chủ quyền, ông nói, ngất ngây từ mọi người - như những cá nhân. Chính phủ là người hầu của những người có chủ quyền và nhiệm vụ của nó cần phải được gia hạn định kỳ. Nếu chính phủ thất bại, họ có thể thay thế nó. Hôm nay có thể có vẻ như thông thường. Trong một xã hội được thành lập trên chế độ quân chủ và tầng lớp quý tộc, đó là một cuộc cách mạng.
Nhưng xã hội làm cho mọi người ích kỷ. “Luật pháp luôn hữu ích đối với những người có tài sản và có hại cho những người không có gì.” Tôn giáo thêm vào những bệnh tật của nó. "Các Kitô hữu đích thực được tạo thành nô lệ."
Bình đẳng, mặc dù không phải là một kết thúc trong chính nó, do đó cần phải được thực thi như một cách để chống lại những ham muốn ích kỷ và sự phụ thuộc mà xã hội sinh sản trong cá nhân. "Đối với xã hội nhỏ gọn không phải là một công thức trống rỗng ... bất cứ ai từ chối tuân theo chung sẽ bị hạn chế để làm như vậy bởi toàn bộ cơ thể: có nghĩa là không có gì khác hơn là ông sẽ bị buộc phải được tự do."
Các nhà cách mạng đã nắm lấy công thức đó như là biện minh cho việc sử dụng bạo lực bạo lực để theo đuổi một người Utopia. Các học giả thường tranh luận về việc đọc này. Leo Damrosch, trong tiểu sử của ông, đang đi theo ý niệm của tướng lĩnh về mặt bi quan của Rousseau. Mọi người bị loại bỏ khỏi trạng thái tự nhiên mà họ cần giúp đỡ để được tự do. Anthony Gottlieb, trong lịch sử của ông về Giác Ngộ, trích dẫn Rousseau là có "sự ác cảm lớn nhất đối với các cuộc cách mạng".
Tuy nhiên, đó là đào tạo không gián đoạn của suy nghĩ từ hồi quy để cưỡng chế, ngay cả ở dạng nhẹ của nó, chà lên chống chủ nghĩa tự do. Bất cứ khi nào một người ở một vị trí quyền lực buộc ai đó hành động chống lại ý chí tự do, không bị cản trở của họ vì lợi ích của chính họ, họ đang gọi hồn ma của Rousseau.
Marx (1818-83) tin rằng tiến bộ đã được tạo ra không phải do điều tra và tranh luận, mà là bởi sự đấu tranh của lớp trong lịch sử . Giống như Rousseau, ông nghĩ rằng xã hội - đặc biệt, nền tảng kinh tế của nó - là nguồn gốc của sự đàn áp. Năm 1847, ngay trước khi một làn sóng bất ổn lan tràn khắp châu Âu, ông viết: “Ngay khi nền văn minh bắt đầu, sản xuất bắt đầu được hình thành trên sự đối kháng của các đơn đặt hàng, bất động sản, các lớp học và cuối cùng là sự đối kháng lao động tích lũy và lao động ngay lập tức. Không đối kháng, không tiến bộ. Đây là luật mà nền văn minh đã theo dõi cho tới ngày của chúng ta. ”
Thặng dư tạo ra bởi lao động bị bắt giữ bởi các nhà tư bản, những người sở hữu các nhà máy và máy móc. Do đó, chủ nghĩa tư bản biến công nhân thành hàng hóa và phủ nhận nhân loại của họ. Trong khi tư sản cảm thấy thèm ăn của họ về tình dục và thực phẩm, các công nhân phải chịu đựng máy chạy bộ và khoai tây thối.
Vì lý do này, chủ nghĩa tư bản chứa những hạt giống của sự sụp đổ của chính nó. Cạnh tranh buộc nó phải lan truyền: "Nó phải nép mình ở khắp mọi nơi, định cư khắp mọi nơi, thiết lập các kết nối ở khắp mọi nơi." Vì nó làm như vậy, nó tạo ra và tổ chức một vô sản lớn hơn bao giờ hết mà nó đi vào để immiserate. Các nhà tư bản sẽ không bao giờ sẵn lòng đầu hàng các đặc quyền của họ. Cuối cùng, do đó, các công nhân sẽ tăng lên để quét sạch cả hai tư sản và vô sản và tạo ra một trật tự mới tốt hơn.
Công việc mang tính cách mạng này không thuộc về một nhà lãnh đạo anh hùng, nhưng đối với công nhân là một lớp. "Nó không phải là một câu hỏi về điều này hay vô sản, hay thậm chí toàn bộ vô sản, hiện tại là mục đích của nó", Marx đã viết với Friedrich Engels, cộng sự của ông, vào năm 1844. “Đó là câu hỏi về điều vô định là và bốn năm sau, trong phần mở đầu của “Tuyên ngôn Cộng sản”, họ dự đoán cuộc cách mạng: “Một bóng ma đang ám ảnh châu Âu - bóng ma của chủ nghĩa cộng sản.”
Tự do tin rằng tất cả các cá nhân chia sẻ cùng một nhu cầu cơ bản, vì vậy lý trí và lòng từ bi có thể mang lại một thế giới tốt đẹp hơn. Marx nghĩ rằng quan điểm đó là ảo tưởng tốt nhất và tồi tệ nhất là một mưu đồ xấu xa để làm dịu người lao động.
Ông đã khinh miệt Tuyên ngôn về Quyền của con người, một tuyên ngôn cho cuộc cách mạng Pháp, như một điều lệ cho tài sản cá nhân và chủ nghĩa cá nhân tư sản. Các tư tưởng như tôn giáo và chủ nghĩa dân tộc không gì khác ngoài việc tự lừa dối. Nỗ lực mang lại sự thay đổi dần dần là những cái bẫy do lớp cầm quyền đặt ra. Nhà triết học Isaiah Berlin đã tóm tắt nó trong cuốn sách của ông về Marx: “Chủ nghĩa xã hội không hấp dẫn, nó đòi hỏi.”
Tuy nhiên, Marx đánh giá thấp sức mạnh của chủ nghĩa tư bản. Nó tránh cuộc cách mạng bằng cách mang lại thay đổi thông qua tranh luận và thỏa hiệp; nó tự cải cách bằng cách chia nhỏ độc quyền và điều chỉnh sự thừa; và nó biến người lao động thành khách hàng bằng cách cung cấp cho họ những thứ mà trong ngày của mình sẽ phù hợp với một vị vua. Thật vậy, trong những năm sau đó, như Gareth Stedman Jones, một nhà viết tiểu sử gần đây, giải thích, Marx đã bị đánh bại bởi nỗ lực để cho thấy lý do tại sao quan hệ kinh tế giữa chủ nghĩa tư bản và công nhân nhất thiết phải kết thúc trong bạo lực.
Marx vẫn là một cảnh báo chống lại tự do tự do. Hôm nay sự phẫn nộ đang thay thế cuộc tranh luận. Lợi ích của công ty được cố ý nắm bắt chính trị và tạo ra sự bất bình đẳng. Nếu những lực lượng đó ngăn chặn các điều kiện tự do cho sự tiến bộ chung, áp lực sẽ một lần nữa bắt đầu tăng lên.
Trong khi Marx nhìn vào cuộc đấu tranh lớp học như là động cơ của sự tiến bộ, Nietzsche (1844-1900) nhìn vào trong, xuống những đoạn tối vào những góc bị lãng quên của ý thức cá nhân. Anh thấy một xã hội đang lảo đảo trên bờ vực sụp đổ về luân lý.
anh ta sẽ quyền lực
Nietzsche đặt ra quan điểm của ông về sự tiến bộ trong "Trên phả hệ Đạo đức", được viết vào năm 1887, hai năm trước khi ông bị tấn công bởi sự điên rồ. Bằng văn bản về sức sống phi thường, ông mô tả cách có một thời gian trong lịch sử nhân loại khi những giá trị cao quý và mạnh mẽ, như lòng can đảm, niềm tự hào và danh dự, đã thắng thế. Nhưng họ đã được thay thế trong một "cuộc nổi loạn nô lệ về đạo đức", bắt đầu bởi người Do Thái và được thừa kế bởi các Kitô hữu dưới ách của người Babylon và sau này là người La Mã. Đương nhiên, nô lệ nâng cao mọi thứ thấp trong chính họ tương phản với giới quý tộc của các bậc thầy của họ: "Chỉ một mình khổ sở là tốt ... đau khổ, bị tước đoạt, ốm yếu, xấu xí cũng là người ngoan đạo duy nhất, người may mắn duy nhất ...".
Việc tìm kiếm sự thật vẫn còn. Nhưng điều này đã dẫn đến sự vô thần, "thảm họa đầy cảm hứng của một kỷ luật 2000 năm trong sự thật, mà cuối cùng cấm bản thân nói dối trong niềm tin vào Thiên Chúa." "Thiên Chúa đã chết ..." Nietzsche đã viết trước đó. "Và chúng tôi đã giết anh ta."
Phải mất can đảm để nhìn chằm chằm vào vực thẳm nhưng, trong một cuộc sống đau đớn và cô đơn, can đảm là thứ mà Nietzsche chưa bao giờ thiếu. Sue Prideaux, trong một tiểu sử mới, giải thích ông đã cố gắng hết sức để cảnh báo những nhà lý luận đã chấp nhận chủ nghĩa vô thần rằng thế giới không thể duy trì đạo đức nô lệ Kitô giáo mà không có thần học của nó. Không thể hiểu được sự đau khổ về đức hạnh tôn giáo hay cái dấu của đức hạnh bị bỏ quên bởi tôn giáo, nhân loại đã bị tiêu diệt để chìm vào hư vô, trong một sự tồn tại ảm đạm và vô nghĩa.
Giải pháp của Nietzsche là chủ quan sâu sắc. Các cá nhân phải nhìn vào chính họ để tái khám phá đạo đức cao quý bằng cách trở thành tiên tri übermensch trong "Vì vậy, Spake Zarathustra", tác phẩm nổi tiếng nhất của Nietzsche. Đặc trưng, ​​anh ta mơ h v chính xác ai là übermensch. Napoleon được tính là mt; do đó, Johann Wolfgang von Goethe, nhà văn và chính khách người Đức. Trong cuc kho sát sáng sut ca ông về suy nghĩ của Nietzsche, Michael Tanner viết rằng übermensch là linh hồn anh hùng háo hức muốn nói Có với bất cứ điều gì, niềm vui và nỗi buồn như nhau.
Nietzsche không dễ bị những lời chỉ trích thông thường - bởi vì những ý tưởng đổ ra từ ông trong một dòng suy nghĩ không ngừng phát triển. Nhưng cả trái và phải đều tìm thấy nguồn cảm hứng trong tính chủ quan của mình; trong trò chơi ngôn ngữ như một phương pháp triết học; và trong cách ông kết hợp chân lý, quyền lực và đạo đức để có thể là đúng và lời nói chính nó là một khẳng định về sức mạnh. Ông là cha của quan niệm rằng bạn không thể ly dị những gì đang được nói từ những người đang nói nó.
Quan điểm không lành mạnh của sự tiến bộ có một kỷ lục khủng khiếp. Maximilien Robespierre, kiến ​​trúc sư ca Terror, đã gọi Rousseau; Joseph Stalin và Mao Trạch Đông viện dẫn Marx; và Adolf Hitler gọi Nietzsche.
Con đường từ sự tiến bộ đáng sợ đến khủng bố là dễ dàng để âm mưu. Cuộc tranh luận về việc làm thế nào để cải thiện thế giới mất mục đích của nó - vì sự xác nhận của Marx về sự tiến bộ, sự bi quan của Rousseau hay tính chủ quan của Nietzsche. Quyền lực bồi thường - rõ ràng cho các lớp kinh tế trong suy nghĩ của Marx và übermenschen trong Nietzsche, và thông qua các thao tác lật đổ của tổng quát sẽ ở Rousseau. Và đổ dồn sức mạnh lên trên phẩm giá của cá nhân - bởi vì đó là sức mạnh.
Ngược lại, chủ nghĩa tự do không tin rằng nó có tất cả các câu trả lời. Đó có thể là sức mạnh lớn nhất của nó.     

Thứ Hai, 14 tháng 5, 2018

Lời nguyền Peter


Khi có 4 cái chấm 0 này thì nguyên lý Peter hoành hành không cưỡng nổi:
- Quyền On
- Trách nhiệm Off
- Ghế: Ôm
- Hiệu quả: Ôi thiu
Nguyên lý Peter nêu ra 1 vấn đề rất đau đầu. Luôn đau đầu, đó là chọn người làm lãnh đạo. 
Nhiều người thông tỏ, phơi phới...ai cũng ngưỡng mộ mà lên lại làm như hạch và ngược lại là chuyện hay xảy ra.
Cho nên nói gì thì nói câu "không lấy thành bại luận anh hùng" là sai toét. Kết quả tốt thì không giỏi cũng may và bại thì không kém cũng xui.
Và đây là nội dung của nguyên tắc Peter:
Một người, với sự cố gắng của mình sẽ leo lên các bậc thang trong tổ chức cho tới ngày mà ở vị trí đó anh ta, chị ta bộc lộ hết sự bất tài của mình.
Hệ quả:
- Nhân viên giỏi, chưa chắc là lãnh đạo giỏi
- Luôn đẹp lòng, đúng ý sếp mà đứng ra cầm cái cháy túi
Cho nên chọn là chọn người đã sẵn sàng ở vị trí đó chớ không phải vì họ xuất sắc ở vị trí hiện tại.
Các nước phát triển có hàng trăm năm kinh nghiệm trong chọn người phù hợp với vị trí....phương đông thì kho kinh nghiệm chọn người cũng tràn trề.
Tổ chức chọn được người tài thì phát triển, chọn sai người thì lụi. 10 người mà 9 người bất tài thì họa. 
Vậy có thể tránh được lời nguyền Peter này không. Có nhiều phương pháp như đào tạo, huấn luyện, thử thách...nhưng cốt lõi là ở cạnh tranh thực chiến trong hệ thống mở chớ không khép kín như cách VN tuyển chọn người tài lâu nay.

Thứ Sáu, 30 tháng 8, 2013
Bất tài là ai
Theo quy tắc Peter thì một người với năng lực trung bình, cùng với sự cố gắng sẽ tuần tự tiến lên trong nấc thang sự nghiệp ở công ty, tổ chức cho đến khi, ở vị trí đó anh ta lộ rõ sự bất tài của mình.
Một thời, quy tắc này là nan đề vì chỉ nhận biết được sự bất tài của một người khi có hậu quả xảy ra.
Sau người ta cũng tìm ra phương án để phòng tránh lỗi lầm này.
Đó là, thứ nhất chọn người vào vị trí đó là do anh ta đã sẵn sàng cho vị trí này chứ không phải vì anh ta làm tốt vị trí hiện tại.
Ví dụ: chọn anh làm giám đốc vì anh đã chín, đã sẵn sàng cho vị trí giám đốc chứ không phải vì anh làm tốt vị trí phó giám đốc.
Cũng tương tự như vậy khi chuyển một người từ vị trí nghiên cứu, nghiệp vụ sang vị trí quản lý.
Thứ hai, đối với các công thần không thể đuổi họ đi được, mà để họ ngồi đó thì cản trở công ty, cản trở anh em. Giải quyết vấn đề bằng cách cho họ làm những vị trí trang trọng nhưng không có thực quyền như phó giám đốc, phó chủ tịch HĐQT...chẳng hạn.
Thứ ba là đào tạo kiến thức, kỹ năng cần thiết cho người ứng viên này
Cuối cùng là phải có các bài trắc nghiệm phù hợp, những thử thách hợp lý để tuyển chọn người thích hợp thực sự
Giống như ông cha tổng kết
Bất tài là ai
Bất tài là ta
Leo lên cao quá hóa ra bất tài

Thứ Hai, 7 tháng 5, 2018

Đông thì xông lên

Trong tâm thức người Việt có 1 sự đồng thuận ngấm ngầm rằng không nam tiến thì đói. Nên  nam tiến là chính nghĩa, ác hồn nhiên vì là mục đích tốt.
Thời Trần, nhà Nguyên đánh Chiêm thành mới ngỏ lời mượn đường. Nhà Trần không chịu nên mới xảy ra trận chiến long trời lở đất.
Nhà Trần không cho mượn đường vì lý do dễ hiểu: sợ nhà Nguyên chơi chiêu mượn đường diệt Quắc.
Vậy tại sao nhà Nguyên lại muốn thịt Chiêm thành mà không phải Đại Việt. Theo lẽ thông thường thì ngoạm Đại Việt xong xử Chiêm Thành luôn theo thế cuốn chiếu chẳng khỏe?
Lý do chính vì Chiêm Thành giàu, có nhiều sản vật. Người Chiêm buôn bán khắp nơi, người ta nói thủy thủ, thuyền Chiêm thành chớ có nói tới Đại Việt bao giờ đâu.
tại sao? đơn giản nghèo quá ai rớ.
Hồi đó chưa có khái niệm địa chính trị.
Dạo đó biên cương Đại Việt tới Hoan Ái tức cực Nam là Quảng Bình.
Thời  Hai Bà Trưng thì 2B khởi nghĩa tuốt bên trên, tới đời Tây sơn còn tính đòi lại Lưỡng Quảng.
Tức là cha ông ta chạy dần về phía nam.
Qua thời gian Trung hoa tiến về Nam nhập đất Bách Việt vô, còn người Việt trước sức ép đó thì lùi tới biên giới bây giờ và lại tiến về phía Nam.
Dần dà Chiêm Thành bị mất đất, Miên bị lấn. Thời Minh Mạng thì nước Việt đã đặt Miên thành quận huyện 1 thời gian sau đó dân Miên mới vùng lên lật đổ ách thống trị này.
Vì sao Việt lùi trước TH và Chiêm, Miên lùi trước Việt?
Lý do thật giản dị. Do dân đông hơn nhiều lần, mật độ dân số cao quá nên phải thiên di. Trên đường đi xứ nào người thưa thì thua, người đông thì xông lên.
Câu chuyện biển người đó có những minh họa sống động như chiến tranh Triều tiên 1950 giữa Mỹ và TQ.
TQ xử biển người khiến Mỷ hòa mà khiếp vía, sau chiến tranh VN tự giác không dám đổ bộ binh lên miền Bắc.
Hay 1979  TQ chơi biển người ở chiến tranh biên giới.
Tất nhiên với chiến tranh hiện đại này nay, chiến thuật biển người là tự sát giống như người da đỏ gục ngã trước mũi súng máy Maxim của quân Anh.
Trong lĩnh vực kinh tế thì chiến thuật biển người cũng phát huy tác dụng.
TQ sau 79 dần trở thành công xưởng thế giới, chính phủ tập trung được ngoại tệ tiến hành chiến thuật biển người trong kinh tế. Tới khi Mỹ nhận ra thì đã giống chiến tranh Triều tiên rồi.
VN có theo kịp trào lưu không?
Ở Điện Biên Phủ thoạt tiên VN cũng chơi biển người sau thấy không êm mới chuyển qua chiến thuật chuột chũi và thành công.
60 năm sau thì VN lại thất bại ở chiến thuật biển người trong kinh tế. Các tập đoàn kinh tế nhà nước - quả đấm thép gục ngã hàng loạt nên thê đội này phải nhường bước cho chiến thuật mới - kinh tế tư nhân.
Người ta tổng kết rằng cứ 30 năm thì chiến lược lại xoay vần:
1954-1984: mô hình kinh tế chỉ huy, bao cấp. Chào 61 đỉnh cao muôn trượng
1985-2015: Thời của đổi mới. Quả đấm thép 
2016- 2046: Thời của tư nhân hóa. Nhưng trước đó phải dọn bãi bằng đốn củi cũ cho rừng cây mới nảy mầm.