Chủ Nhật, 3 tháng 12, 2017

5 chữ F trong thông tin


2. Vì sao người ta dễ dính vào tin giả?

(From The New York Times Thứ Năm 5, Tháng Mười Hai 2019) 

Điều gì khiến cho người ta dễ bị cuốn vào tin tức giả mạo và các trò lừa khác gây chệch hướng dư luận? Và có thể làm gì nếu như nó xảy ra?

Những câu hỏi này đã trở nên bức bách hơn trong những năm gần đây, không chỉ bởi những hé lộ về chiến dịch của Nga nhằm tác động đến cuộc bầu cử tổng thống Mỹ năm 2016 bằng cách reo rắc tuyên truyền qua các phương tiện truyền thông xã hội. Nhìn chung, nền văn hóa chính trị của chúng ta dường như ngày càng bị định cư thêm bởi những người tán thành các tuyên bố kỳ quặc hoặc sai trái mà thường phù hợp với hệ tư tưởng chính trị của họ.

Tin tốt là các nhà tâm lý học và các nhà khoa học xã hội khác đang cố gắng phân tích để hiểu những gì thông qua tuyên truyền đã ngăn cản mọi người nhìn ra vấn đề. Tin xấu là vẫn chưa có một đồng thuận về câu trả lời. 
Phần lớn các cuộc tranh luận giữa các nhà nghiên cứu rơi vào hai phe đối lập. Một phe cho rằng khả năng suy luận của ta bị chiếm đoạt bởi những niềm tin bè phái: tức là ta có xu hướng hợp lý hóa sự việc theo ý thức hệ của mình. 
Phe khác -nơi hai tác giả chúng tôi thuộc về- cho rằng vấn đề là ta thường không thực hiện các năng lực quan trọng của mình: tức là ta lười biếng về mặt tinh thần.

Tuy nhiên, nghiên cứu gần đây cho thấy loé lên một tia sáng cho tranh chấp, đó là cả hai phe dường như đang nắm bắt một khía cạnh của vấn đề. Một khi hiểu được bao nhiêu phần trăm của vấn đề là kết quả của quá trình suy luận và kết quả của sự lười biếng, và khi ta tìm hiểu thêm về yếu tố nào đóng vai trò trong các loại tình huống, thì sẽ có thể thiết kế các giải pháp chính sách tốt hơn để giúp đối chọi với vấn đề.

Phe hợp lý hoá, nơi có sự nổi bật đáng kể trong những năm gần đây, đã được xây dựng xung quanh một loạt các lý thuyết cho rằng khi nói đến vấn đề chính trị, người ta sử dụng khả năng trí tuệ của mình để tự thuyết phục bản thân tin vào những gì mình muốn là đúng, thay cho việc cố gắng thực sự khám phá sự thật. 
Theo quan điểm này, những đam mê chính trị về cơ bản làm cho người ta trở nên phi lý, thậm chí - quả thật, đặc biệt là nếu họ có xu hướng giỏi lý luận trong các bối cảnh khác. (Nói thô thiển là bạn càng thông minh thì càng giỏi hơn trong suy lý.)

Một số bằng chứng nổi bật nhất được sử dụng để hỗ trợ cho quan điểm này xuất phát từ một nghiên cứu có ảnh hưởng năm 2012, trong đó giáo sư luật Dan Kahan và các đồng nghiệp của ông đã phát hiện ra rằng mức độ chia rẽ chính trị đối với vấn đề biến đổi khí hậu là mạnh hơn ở những người có điểm cao về kiến thức khoa học và khả năng tính toán so với những người có điểm thấp hơn trong các bài kiểm tra này. 
Rõ ràng, các đảng viên Dân chủ thuộc loại "phân tích" nhiều hơn thì có khả năng tự thuyết phục tốt hơn rằng biến đổi khí hậu là một vấn đề, trong khi các đảng viên Cộng hòa loại "phân tích" nhiều hơn thì có thể tự thuyết phục bản thân rằng biến đổi khí hậu không phải là vấn đề.
Giáo sư Kahan đã tìm thấy kết quả tương tự, ví dụ ở các nghiên cứu về kiểm soát súng đạn, trong đó ông đã thao tác một cách thí nghiệm khuynh hướng đảng phái về các thông tin mà những người tham gia được yêu cầu đánh giá.

Ý nghĩa ở đây là sâu sắc: suy luận có thể làm trầm trọng thêm vấn đề mà không cung cấp giải pháp, khi nói đến tranh cãi bè phái về các sự kiện. Bằng chứng nữa được trích dẫn để ủng hộ lập luận này xuất phát từ một nghiên cứu năm 2010 của các nhà khoa học chính trị Brendan Nyhan và Jason Reifler đã phát hiện rằng việc sửa chữa bổ sung khi có khiếu nại gây hiểu lầm trong các bài thông tin báo chí đôi khi lại phản tác dụng: 
Không chỉ sửa chữa không làm giảm sự hiểu lầm mà đôi khi còn làm tăng hiểu lầm. Có vẻ những người có khuynh hướng ý thức hệ tin vào một điều giả dối đã làm việc rất hăng để đưa ra lý do rằng sự sửa chữa là sai và khiến họ thậm chí còn càng tin hơn vào điều giả dối đó.

Nhưng tường thuật "hợp lý hóa" này, mặc dù hấp dẫn trong một số bối cảnh, không đáp được chúng tôi như là lời giải thích tự nhiên nhất hoặc phổ biến nhất về sự yếu kém của con người đối với thông tin sai lệch. Chúng tôi tin rằng người ta thường chỉ không suy nghĩ đủ sâu sắc về thông tin gặp phải.

Rất nhiều nghiên cứu về tâm lý học nhận thức đã chỉ ra rằng một chút suy lý đi một chặng đường dài hướng tới việc hình thành niềm tin chính xác. Ví dụ, những người suy nghĩ một cách phân tích nhiều hơn (những người có khả năng thực hiện các kỹ năng phân tích của họ và không chỉ tin tưởng vào phản ứng tức thời của họ) thì ít mê tín, ít tin vào các thuyết âm mưu và ít chấp nhận các khẳng định có vẻ sâu sắc nhưng thực sự trống rỗng (vd. “Wholeness quiets infinite phenomena” là một câu tiếng Anh viết đúng cú pháp nhưng hoàn toàn vô nghĩa). 
Tập hợp các bằng chứng này cho thấy yếu tố chính giải thích việc chấp nhận tin tức giả có thể là sự lười biếng nhận thức, đặc biệt là trong bối cảnh mạng truyền thông xã hội, nơi các mục tin tức thường bị hớt váng hoặc chỉ lướt qua.
NCCông dịch (theo MIT Sloan Experts)
http://dongtac.hncity.org/spip.php?article7020

1. Hàng ngày bạn nhận thông tin như thế nào giữa biển tin:
- Feed news: tin được chế biến, lên khẩu phần định lượng bạn muốn hay không vẫn phải nhận
- Fit news: Tin được may đo nhằm vô sở thích của 1 nhóm nhất định
- Foam news: tống thật nhiều tin cho bạn chìm ngập, loay hoay
- Fake news: tin giả như thật, khốn nỗi rất nhiều người khoái vì nó lạ
- Fuck news: giáng thẳng, sốc, hạ nhục bạn cốt để bạn mất tỉnh táo, rối trí

Thường nghe:
- Tin ra là bán hay tin xấu là mua, tin tốt là bán. Thực ra thị trường đã biết trước những tin này rồi và đã phản ánh hết vô gía. Tới khi tin chính thức ra thì đảo ngược. Thị trường chơi trò tin đồn và ai cũng ngầm chấp nhận luật chơi này, ai không biết, biết trễ kẻ đó thua.


Vậy thực sự tin đồn được nổi danh trong ck từ đâu:
- Tin nhanh là thắng hay truyện của Rothschild.
Khi Anh, Pháp đánh nhau hồi đầu TK19, những người mua trái phiếu của Anh rất mong chờ Anh thắng, nhưng đối thủ của họ lại là Napoleon huyền thoại. 
Ngày kia tin thất trận loan ra, trái phiếu của Anh xả ra như rác, nào ngờ Anh thắng và giá trái phiếu lại vọt lên. 
Người ta đồn rằng chính nhà Rothschild tung tin do họ có hệ thống truyền tin nhanh hơn cả hệ thống của vua Anh tới 1h. 
Và trong 1h đó, chiêu tung tin thua trận được tung ra giúp gom TP với giá rẻ mạt, đương nhiên sau đó thu lợi nhuận khổng lồ.

Công khai là lộ:
1939, báo Anh đăng tin ngày đó tháng đó Đức quốc xã tập trung bao nhiêu sư đoàn, số xe tăng, pháo, tướng tư lệnh và sẽ dùng chiến thuật gì để đánh Ba lan. 
Cả tổng hành dinh Đức nháo nhào, Hitler ra lệnh tìm bằng được gián điệp trong đội ngũ.
Gestapo vào cuộc, bắt, thẩm vấn hàng trăm người vẫn không hiểu vì sao tài liệu tối mật lại bị lộ.
Cuối cùng họ đi đến quyết định cử 1 toán đặc nhiệm sang Anh bắt tay phóng viên kia về. 
Đội Seal...lừng danh của Mỹ sau này là học từ người Đức qua nhiệm vụ bí mật liều lĩnh này.
Thành công tốt đẹp, bắt được tay nhà báo Anh và tay này nhanh chóng khai sạch.
Hóa ra trong vòng 2 năm, ảnh sưu tập, cắt dán tất cả các bài báo liên quan đến quân đội Đức trên chính báo Đức. 
Từ chỉ thị tối cao tới chuyện xe cán chó, tiệc tùng đãi đằng tới thử vũ khí.
Với tài tổng hợp của mình anh PV đã dựng hoàn chỉnh lực lượng Đức, quân số, trang bị, đồn trú, chiến lược chiến thuật và đoán trúng phóc kế hoạch Đức tấn công Ba lan.
Sau các quốc gia, công ty lớn đều học chiêu nay vì họ hiểu rằng 95% thông tin tình báo thu thập được là từ nguồn tin công khai. 
Nay có thêm công cụ Big data, AI nữa thì càng ghê gớm trong khi VN vẫn đa số nghiên cứu theo kiểu nghe lóm rồi ra nghị quyết

Vòng đua tử thần:
Dân Nga có máu liều, rất liều. Khi sĩ quan Nga đồn trú ở Kavkaz rãnh rỗi đã chơi trò bắn súng; một trò chơi trong đó người tham gia bỏ một viên đạn vào súng, quay tròn hình trụ rồi dí súng bắn vào đầu mình. 
Nếu may mắn thì không mất mạng còn ai đen đủi thì khó giữ được mạng sống. Và trò được gọi tên là bắn súng kiểu Nga (roulette Russian).
Nói thế để biết dân Nga khi bị dồn vô chân tường thì ghê gớm (giống người Việt).
Giờ kể chuyện vòng đua tử thần:
Liên xô thời nội chiến. 1 hôm Treka (tiền thân của KGB) khét tiếng bắt ông chủ gia đình trung niên đem đi.
1 mất mười ngờ. Gia đình nghi ngờ ai đó báo Treka chớ không làm sao họ biết. Bàn luận chán chốt được 2 nhà khả nghi: 1 thì cãi nhau ranh vườn, 1 thì thù hằn đời ông nội. 1 tờ A4 cùng 1 cây viết chì được đem ra thảo đơn tố 1 liên quan Bạch vệ, 1 cu lắc.
1 tháng sau, Treka vô bắt 2 người bị tố cáo.
Vòng xoáy cứ thế tiếp tục.
Sau 1 năm làng chỉ còn người già, đàn bà ốm yếu và con nít.




hiện tượng trump dưới cái nhìn của nhà ngôn ngữ học


Giữa tháng 11/2018, nhà ngôn ngữ học George Lakoff lên tiếng phê phán truyền thông Hoa Kỳ  “đã không làm tròn công việc của mình”[1] trong cuộc đối đầu với những sai trái của tổng thống Trump. Tạp ghi lần này trở lại với đề tài Trump.
George Lakoff là một trong những người sáng lập ra môn “Ngữ Học Tri Nhận” (Cognitive Linguistics) từ những năm đầu thập niên 1970. Cùng với triết gia Mark Johnson, ông đề ra lý thuyết “Ẩn dụ ý niệm”, giải thích vai trò của ý niệm trong việc hình thành ẩn dụ, vốn là nguồn suối căn bản của tư tưởng con người.[2] Ngay từ thời gian đầu tiên khi Trump ra tranh cử tổng thống, “Tôi đã sử dụng Ngữ Học Tri Nhận để tìm hiểu hiện tượng Trump,” Lakoff cho biết. Theo Ngôn Ngữ Tri Nhận, ngôn ngữ là một phương tiện dùng để tổ chức, xử lý và truyền đạt tin tức, do đó, là một kho chứa kiến thức về thế giới, một tập hợp những phạm trù có ý nghĩa giúp con người tiếp thu, đối phó với những kinh nghiệm mới và tích trữ những kinh nghiệm cũ. Nói khác đi, kinh nghiệm và thái độ của một cá nhân đối với những vấn đề xã hội và chính trị được “kết khung” (framed)[3] trong những cấu trúc ngôn ngữ. Ngôn ngữ kích hoạt mạch cơ cấu não bộ (frame-circuits), giúp não bộ nắm bắt và lý giải những gì chúng ta trải qua trong hiện thực. Do đó, một mặt, nó phản ảnh những nhu cầu, quyền lợi, mối quan tâm cũng như kinh nghiệm cá nhân và mặt khác, định hình cách ta suy nghĩ và hành động về mặt xã hội và chính trị.
Chính vì vậy, bằng cách sử dụng ngôn ngữ để kích hoạt, người ta có thể chi phối cách thức người khác suy nghĩ và hành động. Càng nghe nhiều, càng bị kích hoạt. Một từ ngữ hay một nhóm từ ngữ, nếu được lập đi lập lại đến một độ cần và đủ nào đó, sẽ thể biến chúng thành thường trực, kết khung trong óc não và từ đó, thay đổi nhãn quan của chúng ta đối với thế giới. “Bằng cách để cho Trump kích hoạt ý tưởng của ông vào trong óc não chúng ta, chúng ta tăng cường mạch thần kinh (neurocircuitry) cho những ý tưởng này. Điều đó cho phép Trump chiếm lĩnh vùng vô thức của chúng ta, vì 98 phần trăm tư tưởng chúng ta vốn là vô thức,” theo Lakoff.
Bởi thế, Lakoff cho rằng tổng thống Trump đã biến chữ thành vũ khí. Bằng cách tuýt (tweet) những điều đôi khi không giống ai, hoặc là “nói lấy được”, ông thường tạo ra những tin tức nổi bật, có tính gây “sốc”. Như ánh sáng hấp dẫn đám côn trùng vào ban đêm, chúng lập tức thu hút giới truyền thông và được lập đi lập và chuyển tải ngay lập tức. Điều đó làm tên tuổi Trump và tất cả những gì xoay quanh ông đều xuất hiện thường trực trên truyền thông. Và dù đúng dù sai, chúng trở thành sự kiện, trở thành có ý nghĩa và do đó, chi phối nhận thức của người ta về hiện thực. Nên chẳng lạ gì, những dòng chữ ngắn ngủi, đa phần có thể nảy sinh bất chợt từ trong đầu óc của ông, khi xuất hiện, thường làm xáo trộn thị trường, phá vỡ mối bang giao quốc tế và hâm nóng không khí chính trị hàng ngày. Lakoff nhận xét: cái điện thoại cầm tay của tổng thống Trump trở thành một trong những vũ khí mạnh mẽ nhất trong lịch sử chính trị thế giới. Lakoff cho rằng chữ nghĩa trong các tuýt của ông, nói chung, là vô trách nhiệm và rất phi-tổng thống (un-presidental). Tuy nhiên, vấn đề thực sự không phải ở chỗ Trump nghiện mạng xã hội, mà ở chính ở chỗ ông ta “dùng mạng Twitter để kiểm soát chu kỳ tin tức, bởi vì báo chí, chính giới và những người Dân Chủ liên tục trao quyền cho ông ta làm như thế,” theo Lakoff.
Và theo Lakoff, những cái tuýt của tổng thống Trump không được tạo ra một cách tình cờ, mà trái lại, chúng có tính chiến lược. Lakoff phân các tuýt của Trump thành 4 loại:
1) kết khung (frame) trước để chiếm lợi thế;
2) làm lệch hướng sự chú ý về chuyện khác khi một tin tức nào đó đang gây bất lợi cho mình;
3) chuyển hướng dư luận: quy lỗi cho người khác;
4) thả bóng thăm dò.
Nói thế có nghĩa là bất cứ cái tuýt nào của Trump, dù đó là tự tâng bốc mình, đưa sai số liệu, sỉ nhục đối thủ hay chê bai, gây gổ với thuộc cấp, bạn bè và đồng minh, trước sau bất nhất, vân vân, là đều có dụng ý.
Nhân nói đến “dụng ý”, xin dừng một chút để nhắc đến một điều khác có dính dáng ít nhiều đến cách làm việc của Trump. Dư luận chung chung thường cho rằng, ông là một thương gia, chẳng có kinh nghiệm gì về chính trị, cho nên chẳng đưa ra được một chính sách nào rõ ràng. Trong thực tế, Trump ra ứng cử tổng thống dưới quan điểm của đảng Cộng Hòa, đó là quan điểm bảo thủ. Từ lâu trước khi Trump ra ứng cử tổng thống, Lakoff đã phân tích về hai quan điểm trái ngược nhau giữa hai khuynh hướng chính trị chế ngự sinh hoạt chính trị Mỹ trong “Metaphor, Morality, and Politics, Or, Why Conservatives Have Left Liberals In the Dust” (1995) và sau này, khi Trump ra ứng cử, ông có dịp nhắc lại trong “Understanding Trump” (2016). Thế giới quan của hai đảng, theo George Lakoff, đều dựa trên “ẩn dụ ý niệm”: ví von Quốc Gia với Gia Đình (Nation as Family), trong đó chính phủ là cha mẹ. Quan điểm chính trị theo khuynh hướng tự do (liberal) của đảng Dân Chủ là “Hiền Mẫu” (Nurturant Parent family = gia đình có cha mẹ bảo bọc); quan điểm theo khuynh hướng bảo thủ (conservative) của đảng Cộng Hòa là “Nghiêm Phụ” (Strict Father family = gia đình có người cha nghiêm khắc). Trong lúc “chính phủ như Hiền Mẫu” có trách nhiệm cung cấp đầy đủ mọi thứ cho những nhu cầu căn bản của người dân như đồ ăn, chỗ ở, giáo dục, bảo hiểm sức khỏe…và xa hơn, bảo vệ môi trường, hỗ trợ nữ quyền, đồng tính, ủng hộ phá thai, chấp nhận di dân, trợ giúp dân thiểu số, thực hiện đa văn hóa…thì quan điểm “chính phủ như Nghiêm Phụ” dựa theo luân lý truyền thống. Đó là một thế giới có kỷ cương, phép tắc, có tôn ty (hierarchy) đại loại như :Thượng Đế ở trên Người, Người ở trên Thiên Nhiên, Người có kỷ luật (mạnh) ở trên Người vô kỷ luật (yếu), Giàu trên Nghèo, Chủ trên Thợ, Lớn trên Nhỏ, Văn hóa Tây Phương trên các văn hóa khác, Mỹ trên các nước khác, và đi xa hơn: Nam trên Nữ, (da) Trắng trên (da) Màu, Thiên chúa giáo trên phi-Thiên chúa giáo, Dị tính trên Đồng tính, vân vân[4] Khuynh hướng này tìm thấy ở hầu hết những ứng cử viên đảng Cộng Hòa, kể cả Trump và những người bảo thủ. Ít nhất có đến hàng chục triệu người có khuynh hướng bảo thủ, chia xẻ quan điểm Nghiêm Phụ và tôn ty trật tự. Nhiều người trong số họ, tuy nghèo hoặc trung lưu, nhưng vẫn thấy họ cao hơn di dân, cao hơn những người da màu.
Theo Lakoff, tổng thống Trump không cần phải nêu ra chính sách, vì đảng Cộng Hòa đã có hàng trăm chính sách như thế từ lâu. Cái mà họ muốn là nắm hết cả Quốc Hội, Tổng Thống và Tối Cao Pháp Viện để thi hành mà thôi. Trump là người duy nhất diễn đạt một cách thẳng thắn, trực tiếp và dài hơi mọi điều mà họ thích. Những dòng tuýt của ông thường đưa đến những hậu quả trầm trọng hoặc tưởng như trầm trọng, thực ra, đều nằm trong quan điểm “Nghiêm Phụ” của đảng Cộng Hòa, được thể hiện một cách không giấu giếm. George Lakoff viết: “Trump là người lớn tiếng diễn đạt mọi thứ mà họ [đảng Cộng Hòa] cảm thấy, – diễn đạt một cách mạnh mẽ, xông xáo, giận dữ và chẳng chút ngượng ngùng. Tất cả điều họ cần làm là ủng hộ Trump và bầu cho Trump, ngay cả chẳng cần phải tỏ vẻ phải đạo (politically incorrect) làm gì nữa, bởi vì ông làm điều đó cho họ rồi và sự chiến thắng của ông sẽ làm cho những quan điểm này trở thành có giá trị.”[5]
Trở lại với những cái tuýt của Trump. Ngược lại với nhận định cho rằng truyền thông Hoa Kỳ thời gian qua đều đồng loạt, liên tục tấn công và gây hại cho Trump, Lakoff cho rằng Trump đã sử dụng phương tiện truyền thông để thao túng dư luận, làm lợi cho mình và điều này đã chuyển đổi một cách căn bản hình thức truyền thông của một tổng thống Mỹ.
Tại sao?
Mỗi lần tổng thống Trump tuýt là gây ra phản ứng tức khắc. Các thông tín viên, các chính trị gia Dân Chủ và cả mạng xã hội đua nhau bám vào cái tuýt, rồi tuýt đi tuýt lại một cách đầy ám ảnh khiến cho nó càng lan xa, lan rộng. Những dự đoán, phân tích, phản bác, lên án, hay chửi rủa, vân vân và vân vân, trên truyền thông, thay vì xóa mờ nội dung của nó, lại biến những dòng tuýt đôi khi kệch cỡm và trẻ con của nó thành sức mạnh, thậm chí thành…chính sách. Quá tập trung sự chú ý vào các tuýt của Trump, người ta đã làm cho ông lớn hơn hẳn chính mình, theo Lakoff. Nội dung của chúng, nhờ thế, kích hoạt và gây ảnh hưởng lên óc não con người. Điều này, cũng theo Lakoff, “sản xuất ra một hiệu quả mà ngữ học tri nhận gọi là “ảo giác hội tụ” (focusing illusion) và điều đó giải nghĩa tại sao Trump, từ một tay mơ chính trị lại trở thành tổng thống.” Trump đã biến truyền thông thành một dịch vụ thông tin của công ty Twitter. Mặt khác, sự giận dữ chống lại Trump, thay vì hạ uy tín của ông, thì ngược lại, tăng thêm sự ủng hộ từ khối cử tri nền tảng của ông (base), nhất là cử tri da trắng.
Rõ ràng là tổng thống Trump đã sử dụng ngôn ngữ để định hình cách suy nghĩ của người Mỹ. Trump dường như biết rất rõ rằng truyền thông có một bản năng mạnh mẽ lập lại những gì ông nói. Bản năng đó, rốt cuộc, khiến truyền thông, trong mục đích chống lại Trump, thì lại hoạt động giống như là đại lý tiếp thị (marketing agency) của ông. Bằng cách chuyển tải một cách trung thành những chữ và ý tưởng của ông, báo chí đã giúp ông tấn công, và từ đó, kiểm soát chính báo chí. Theo Lakoff, Trump đã là một tay thương lái trong nửa thế kỷ. Bây giờ ông mang chính mình ra bán, kéo theo đó là thế giới quan và cái nhìn riêng của ông về chân lý và luật pháp. Trump trở thành một “thử nghiệm thô bạo” (brutal test) đối với nhân dân Mỹ. Lakoff cho rằng, để sống còn, truyền thông phải ngừng lại tội đồng lõa vô ý thức (unwitting complicity) với Trump. Truyền thông “đừng chấp nhận cách kết khung xuyên tạc các biến cố của tổng thống Trump.”[6]
Để chỉnh đốn lại cung cách của mình, Lakoff nêu lên bốn điểm truyền thông cần phải làm:
– Một, nhà báo phải hiểu thế nào là một sự tuyên truyền có hiệu quả tác động trên óc não con người.
– Hai, chú ý đến sự kiện nền dân chủ Hoa Kỳ đang ở trong tình trạng khủng hoảng do có sự can thiệp của nước ngoài vào cuộc bầu cử tổng thống năm 2016.
– Ba, đừng để cho tổng thống Trump kiểm soát tin tức bằng cách theo dõi và phát tán những dòng tuýt của ông, bất kể chúng nói về điều gì.
– Bốn, đừng ưu tiên đưa những tuýt của tổng thống Trump vào tin hàng đầu. Tuyệt đối đừng lập lại những lời nói láo của ông. Bởi vì “một lời nói láo mà cứ được lập lại một số lần cần thiết nào đó, nó sẽ trở thành sự thật,” theo Lakoff.
Không những thế, Lakoff còn nhắc nhở báo chí cũng đừng kiểm tra (fact-check) những đề tài Trump nêu ra trong tuýt, chẳng hạn như đề tài như di dân. Điều cần làm bây giờ là tập trung trước hết và chủ yếu là về sự thật, về sự kiện. Thông tín viên thường được huấn luyện là phải tường trình đúng những gì xảy ra, nhưng trong trường hợp này, đừng nên làm như thế. Đưa ra ví dụ về đoàn di dân từ Honduras, Lakoff cho rằng Trump đã thành công trong việc buộc truyền thông phải thừa nhận cái khung tư tưởng – một hình thức kết khung (framing) – mà ông đưa ra trước thời gian bầu cử giữa nhiệm kỳ: di dân là xâm lăng. Bởi vì, càng tường thuật nhiều và liên tục về đoàn di dân, thì lại càng giúp Trump chuyển tải sứ điệp di dân là “đạo quân xâm lăng”chừng đó. Đó là một “khái niệm ảo” (bogus notion). Tiến trình tư tưởng và cách nói của Trump thường có tính cách “ẩn dụ”, theo Lakoff. Báo chí phải vạch rõ đó là ẩn dụ bất cứ khi nào nó xảy ra. Ẩn dụ là vô thức, vậy báo chí “phải làm cho cái vô thức thành ý thức” (make the unconscious conscious). Ngoài ra, George nói báo chí không nên lập lại những nhóm từ gây xúc động, chẳng hạn như “tin giả” (fake news). Nó càng được lập lại, nó càng gắn sâu vào đầu óc những người nghe.
Tóm lại, qua các đề nghị của Lakoff, có lẽ cách duy nhất có hiệu quả để chống lại tổng thống Trump, nói một cách nghịch lý, là đừng quan tâm đến những gì Trump phát biểu qua tuýt. Một đề nghị nghe ra có phần hợp lý, nhưng trong xứ sở này, đó lại là một việc vô cùng khó khăn. Công việc của truyền thông là kiếm tiền cho những ông chủ của nó, các tổ hợp truyền thông, và phục vụ cho các khách hàng của nó, các công ty buôn bán. Nhân dân Hoa Kỳ không phải là chủ nhân cũng chẳng phải là khách hàng, họ chỉ là sản phẩm của truyền thông. Trump hiện vẫn là đề tài hấp dẫn, do đó, tường thuật về ông là một hình thức “câu view”, nâng cao số khán giả, đưa đến lợi nhuận. Trump rõ ràng là hiểu rất rõ và rất sâu bản chất của báo chí Hoa Kỳ. Ông đã từng nói thẳng với những người làm báo qua ghi nhận của Lakoff, “Tôi đang kiểm soát lợi tức của các vị. Như các vị đã biết, tôi kiểm soát cách các vị kiếm sống. Và tôi có thể lấy nó đi bất cứ khi nào tôi muốn. Vậy thì tốt nhất là các vị hãy chơi đẹp với tôi.”[7]
“Chơi đẹp” với Trump kiểu nào đây, hỡi “kẻ thù của nhân dân Mỹ”?[8]
Tiếp tục tấn công Trump hàng ngày theo kiểu cũ?
Hay tảng lờ Trump theo kiểu George Lakoff?
Wait and see!
__________________
Tham khảo:
– George Lakoff, Metaphor, Morality, and Politics, Or, Why Conservatives Have Left Liberals In the Dust
– George Lakoff and Gil Durán, Trump is using Twitter to manipulate the country. Here’s how to stop falling for it
– The Guardian, Trump has turned words into weapons. And he’s winning the linguistic war
– Daniella Emanuel, CNN, George Lakoff: ‘The media is not doing its job’, 9/11/18
– George Lakoff, Understanding Trump,
– George Lakoff, Understanding Trump’s Use of language
The FAKE NEWS media,” he wrote, citing The New York Times, CNN, and NBC News, among others, “is not my enemy. It is the enemy of the American people. SICK!


[1] The media is not doing its jobs.
[2] Về quan niệm ẩn dụ ý niệm, xem ở Trần Hữu Thục, “Ẩn dụ, cuộc phiểu lưu của chữ.” Có thể xem ở “Ẩn dụ ý niệm”,

Chủ Nhật, 26 tháng 11, 2017

Ước mơ số 5

12.07.21
Tiếp tục về số 5 Nhưng là 500 gia tộc. 
 Các nước quanh vùng nền kinh tế gần như nằm trong tay của khoảng 500 gia tộc. Họ làm kinh doanh sản xuất đầu tư xuất nhập khẩu...cái gì ra tiền thì họ làm. Thoạt tiên hầu như gia tộc nào cũng kinh doanh bất động sản, khai thác tài nguyên rừng biển mỏ...dần dà xuất hiện 3 khuynh hướng 
- gia tộc tiến vào sản xuất công nghiệp như cn nặng, điện tử, bán dẫn, hóa chất...và làm cho quốc gia thịnh vượng như Nhật, Hàn, Đài... 
- gia tộc duy trì kinh doanh bđs và gia công như Thái, Mã... 
- gia tộc chú trọng khai thác tài nguyên, lập công ty sân trước sân sau...như Indonesia, Philippines... Còn TQ là tập hợp cả 3 khuynh hướng vì đơn giản họ quá to. Công ty sân sau thường hoạt động trong cùng ngành để lấy phần béo bở. Vd chính thức là nhà trọ thì sân sau là ks. 
Ở VN thì khái niệm 500 cũng nổi tiếng như trai giang hồ HP khoe có 500 anh em, hay học C500 ra là đẳng cấp... Vậy VN có đi theo xu hướng 500 gia tộc không, theo các bạn?

11.07.21
567 về địa lý 
 3 trung tâm quyền lực của VN được chia thành:
 - Ngũ Quảng miền trung gồm Quảng bình Quảng trị Quảng ngãi Quảng đức Quảng nam 
- Nam kỳ lục tỉnh: Phiên an Biên hòa Định tường Vĩnh long An giang Hà tiên 
 - Thất hà: thực ra là 5+2 với Hà nội trung tâm, xung quanh là Hà bắc Hà đông Hà nam Hà tây. Chưa an tâm nên chắn phía bắc bằng Hà giang và ngăn với ngũ Quảng bằng Hà tĩnh.

Ngày xưa anh 3D ước: ước gì VN đã trải qua tư bản và rất may là VN chưa qua CNTB///

1. Ước của người:
- Khi làm lính thì ước, tao mà làm trưởng phòng sẽ làm được khối việc hay.
- Đến khi làm TP, hiểu ra lại ước, tao mà làm giám đốc sẽ làm được khối việc hay.
- Đến khi làm GĐ, hiểu ra lại ước, tao mà làm bộ trưởng sẽ làm được khối việc hay.
- Cứ thế ước mãi, chỉ có điều khi chạm đích lại vẫn không làm được or điều ước đó giờ thật quê mùa, phải giấu ngay.

2. Những số 5 nổi tiếng:
- Ngũ hành: kim mộc thuỷ hoả thổ. 5 đại diện quan hệ với nhau trật lấc về mặt khoa học mà ai nấy tin sái cổ. Từ đó mới có:

- Còn ngũ cung trong âm nhạc nữa. Nhưng cũng là từ gốc ngũ hành mà ra. Vì cái gốc này mà nhạc mình có 5 nốt so với tây 7 nốt nên đơn điệu hẳn
- Người thì tướng ngũ đoản, rượu ngâm ngũ xà, mây lành ngũ sắc nhưng nếu tiếng xấu lại là ngũ quỷ...
- Ngũ long công chúa: với tinh thần trọng nam khinh nữ thì nghe thật ngậm ngùi
- 5 xu: chỉ tiểu thuyết, báo lá cải. Giờ lá cải cực phổ biến
- Ngan nằm: 5.000đ trị giá phong bì thời tiền có giá
- Phạt 5 phút: khẩu lệnh các cô giáo ưa dùng
- Phạt 5 triệu: từ 5 ngàn tới 5 triệu có khoảng cách 40 năm
- Kế hoạch 5 năm gắn liền với các nước xhcn. Tôi đồ rằng do chia 10 năm làm 2 cho nó theo hệ thập phân, dễ tính
- Ngũ hỉ: lời cô dâu Huế đêm tân hôn (làm chú rể từ mừng song hỉ tới bị K.O sau ngũ hỉ)
- Nhất dạ ngũ giao: Vua Minh Mạng tự hào
- 5 anh em trên 1 chiếc xe tăng

- 555 vừa nằm vừa ký

Chủ Nhật, 5 tháng 11, 2017

Bức tường Trung hoa



(Hay là câu chuyện về đồng thuận Bắc kinh ở dạng vi mô)
Xưa nhà giàu Trung hoa thường ở trong 1 căn nhà lớn mà các phòng được ngăn cách với nhau bằng rèm lụa. 
Khi mở ra thì rộng rãi thoáng đãng, khi kéo lại thì chỉ thấy thấp thoáng lờ mờ nên cách duy nhất dò xét là nghe trộm nên câu: tai vách mạch rừng là có từ ấy.

Những người sống ở đô thị chật chội thời bao cấp hẳn không thể quên được nhà 5,7 con tới khi lớn lập gia đình đâu có chỗ ra riêng. 
Thế là mỗi cặp vợ chồng được ngăn cách với nhau bằng 1 tấm ri đô, lúc ngủ nghỉ đồng loạt kéo rèm và sống trong khoảng trời riêng đó.

Người Tây nhìn thấy cái này thích quá bèn đem về áp dụng trong quản trị công ty. Đó là việc tuy cùng 1 công ty nhưng phòng ban có mâu thẫn lợi ích với nhau thì được các ly bằng cách vận hành riêng biệt, không cho chung đụng, san sẻ thông tin với nhau.
Đừng nghĩ tường này chỉ làm cảnh, Khải silk vận hành tốt tới 30 năm mới lộ.
Ví dụ như công ty chứng khoán thì phòng môi giới và phòng tự doanh phải dùng bức tường Trung hoa ngăn cách với nhau.

Nhưng Tây học lóm nên mới học được 1 vế, còn vế thứ 2 thâm sâu hơn nhiều là chia cắt các bộ phận, đối tác có mâu thuẫn lợi ích hoặc có khả năng hợp tác với nhau.

Điều này thực dân Pháp xưa hiểu: chia để trị nên Nã Phá Luân mới gờm TH đến vậy, coi họ là con rồng đang ngủ không dám đánh thức nó.

Cặp Nixon, Kissinger bí thế làm liều đã nôn nóng đánh thức con rồng choàng tỉnh. Giờ đây các bạn thấy rồng khè lửa ghê gớm tới bực nào.

Chúng ta cùng nhau điểm qua 1 số nét trong cách quản trị theo kiểu bức tường Trung hoa này:

2 lối nhìn quyết định ai là ông chủ:
Giám sát viên: Bc anh, xưởng của họ ít việc, kho hàng rỗng. Khi em đến họ bố trí thêm người làm, có khả năng lừa đảo
Giám đốc: tốt, thế là họ cần việc, ta có thể ép giá thêm

Dốt vẫn quản tốt:
- Có giám đốc thành công nhờ anh ta tinh mắt, may mắn tuyển được thư ký giỏi và giữ chân được cổ
- Khi lãnh đạo không phân tích hay dở của 1 báo cáo được. Anh ta bèn ép nhân viên sửa BC ít nhất 5 lần. Sau đó mới đem nộp cấp trên hoặc đem ra trình bày

Nội dung chính:
- Không thuê quá 1/4 người cùng tỉnh để tránh băng nhóm lớn
- Thuê nhiều người hơn nhu cầu thực sự để họ sợ và dè chừng nhau
- Người giám sát doanh nghiệp luôn được đối xử theo cách thuận thì sống, chống thì biến
- Kẻ tố giác mang lợi ích cá nhân và làm tổn hại tập thể
- Khi DN thành đạt thì có quyền giảm chất lượng
- ISO, kiểm toán độc lập, giám định chất lượng...đều là tổ chức kinh doanh cả
- Khi quản trị hung bạo thành nếp thì nhân viên cũng thân thiết với QTV như thường
- Bạn không thể cạnh tranh bằng cách trốn tránh đối thủ cạnh tranh
- Để những món đồ lặt vặt cạnh máy tính tiền cho khách hàng lấy trộm trong khi chờ tính tiền làm công việc chạy
- Bẻ cò khi đối thủ nghĩ ngon trớn
- Xin lỗi khi việc đã rồi thì dễ hơn xin phép
- Điểm số là điều quan trọng hơn cách đạt được
- Bán rẻ cho người giàu để lấy thương hiệu, bán mắc cho người nghèo lấy lời
- Chia cắt các bộ phận, đối tác có mâu thuẫn lợi ích hoặc có khả năng hợp tác

Thứ Hai, 23 tháng 10, 2017

Củ hành bao lớp



Dọc bằng đòn gánh,

Củ bằng bình vôi,

Ai mua hành tôi,

Thì thương tôi với!


Văn hóa người Việt được hình thành từ thời tối cổ, trải hàng ngàn năm mới có ngày hôm nay.

Từ xa xưa có 3 câu chuyện theo tôi hình thành nên lõi tính cách người Việt:

- Thánh Gióng: Khát vọng từ nhỏ yếu, câm nín bỗng 1 hôm bằng chi phí, viện trợ tối đa mà trở thành khổng lồ, lập được kỳ công

- Sơn tinh Thủy tinh: Tài giỏi gì thì đi thi cũng phải có giám khảo cùng phe chớ võ mà bắt thi văn là trớt quớt. Điều đó nó lên sự mất tự tin tuy rằng quan hệ giỏi

- Chử Đồng tử: mơ mình có lợi thế hơn người dù hoàn cảnh cùng quẫn

Với 1 nghìn năm giặc tàu thì lớp vỏ thứ nhất được hình thành nhưng từ đây lõi phản ứng, tiết ra 1 kháng thể cực mạnh giúp cho giành độc lập, tránh bị đồng hóa:

Đó là người Việt cứ ở với ai lâu là không sợ người đó nữa mà các cụ vẫn hay mắng: gần chùa gọi Bụt bằng anh.

Khoảng 800 năm độc lập sau hình thành lớp vỏ thứ 2 với sự du nhập đạo Phật, Nho, Hồi...nhưng quan niệm trần sao âm vậy rồi đám cưới dứt khoát phải có thịt chó thì chứng tỏ đạo vô VN cũng chỉ nằm ngoài vỏ chứ không vô được lõi.

100 năm Pháp đô hộ, quá trình bài Nho học văn minh Tây phương bắt đầu hình thành nên lớp vỏ thứ 3 nhưng lớp vỏ này mỏng mảnh. Đa số, đặc biệt giới trí thức khó chịu khi mang lớp vỏ này. Họ khó chịu, họ cựa quậy nên khi có cơ hội là lớp vỏ này bể.

Cho tới ngày nay, hầu như chỉ còn di sản kiến trúc minh chứng cho 1 thời còn lại từ tiếng Pháp, văn hóa, pháp luật...tóm lại những thứ phi vật thể đã trôi vào dĩ vãng.

Sau 45 lớp vỏ thứ 4 hình thành, bao cấp phù hợp tâm thức Việt nên ngấm vô tận lõi. Sự mạnh mẽ của lớp vỏ này xóa tan cả lớp vỏ thứ 3 còn lại ở miền nam.

Đến nhanh nhưng đi cũng nhanh, ngày nay những thói quen kế hoạch hóa, bao cấp cũng trở thành dĩ vãng và lớp vỏ thứ 5 hình thành sau 85.

Như vậy, với lịch sử chúng ta có 5 lớp vỏ nhưng điều kỳ lạ của người Việt là lớp vỏ thứ 3,4 không tồn tại lâu nên vẫn chỉ có lõi và lớp 1,2 và 5.

Thế nên chúng ta thật cổ xưa và mong manh.

Chủ Nhật, 8 tháng 10, 2017

Khi CEO quá tự tin


- Khi CEO quyền to quá thì quản trị công ty trở nên yếu ớt
- 1 số quản lý thường gặp nhiều thuận lợi trong công việc cũng như trong đời sống và họ trở nên quá tự tin
- Quản lý quá tự tin thì có xu hướng tự nhiên tìm kiếm rủi ro. Tiếng Việt gọi là mua dây buộc mình
- Công ty luôn có những ràng buộc chính thức và không chính thức giữa quản lý và nhân viên, công ty và khách hàng, người cho vay, người bảo hiểm, cổ đông và người liên quan. Để cân bằng nhà quản lý phải thỏa mãn từng đó điểm quan hệ
- Người khởi nghiệp thường tự tin và lạc quan quá về cơ hội thành công. Sau 3 năm thì họ thận trọng hơn nhiều và chỉ 1/2 là còn tồn tại
- Chi phí thực tế thường gấp đôi so với dự toán
- CEO càng lạc quan thì dòng tiền càng dễ bị tổn thương
- Khi nhà quản lý tin tưởng 80% vào mức sinh lãi của cổ phiếu sau 1 năm thì thực ra mức độ đạt được chỉ là 33%
- CEO lạc quan và quá tự tin thì làm được nhiều cuộc sáp nhập hơn, đặc biệt M&A ngoài ngành
- Nhà đầu tư thường bi quan về thông báo này
- Cái tôi tự yêu mình của CEO làm họ giải quyết bằng được thương vụ
- Công ty có HĐQT tinh gọn thường đạt giá trị cao hơn
- HĐQT tinh gọn và ủy viên độc lập thực chất sẽ làm giảm ảnh hưởng thú vui M&A của CEO quá tự tin
- CEO nắm nhiều CP thì quan tâm tới phát hành và sẵn lòng trả phí cao hơn


Bộ 3 conflict của CFO DN niêm yết là tối đa hóa giá trị doanh nghiệp, tối đa hóa giá cổ phiếu, điều chỉnh sai lệch giá
- Khi cổ phiếu bị định giá cao or thấp quá thì người ta rất muốn phát hành thêm
- Khi bị định giá thấp thì tự nhiên muốn mua vào (repurchases)
- Khoái vay khi lãi suất thấp
- Phát hành xuyên biên giới bởi lãi suất ở đó ngon ăn
- Tổ chức tài chính trung gian giúp dòng tiền chạy, nó mà ngừng chạy thì khó khăn to
- Công ty càng hạn chế quyền của cổ đông thì giá cp thường thấp
- Agency thì mâu thuẫn quyền lợi giữa quản lý và nhà đầu tư bên ngoài. Còn nhà quản lý lởm khởm thường tối đa hóa lợi ích cá nhân của anh ta.

TLTK: http://pages.stern.nyu.edu/~jwurgler/papers/bcfsurvey2v20.pdf

Thứ Hai, 25 tháng 9, 2017

Trí thông minh của Tèo


Tèo được giao nhiệm vụ ném trái banh vô rổ cách xa 3m.
Theo các bạn Tèo sẽ làm gì?
1. Nếu Tèo mang thiên hướng nhà thơ thì Tèo sẽ ném rổ 1 cách trang trọng và 99% là trượt. Hôm sau tới lớp Tèo nộp bài văn kể về trận bóng rổ trong đó Tèo ném rổ ghi điểm quyết định thắng lợi. Cho nên, những bạn này hãy để cho các bạn làm thơ, làm văn chứ đừng cho làm giá lương tiền kiểu Tố Hữu.
2. Bạn cũng ném trượt nhưng hôm sau âm thầm tập lại với chi chít sơ đồ về khoảng cách, vị trí, góc, lực...và thành tích của bạn có lên cao hơn trước và như vậy Tèo có khả năng thành nhà toán học, đứa con cưng của thời đại số hóa. Xa hơn nữa thì chính kiểu tư duy Acsimet này góp phần vào sự thắng thế của Tây phương.
3. Tèo ném khá tốt nhưng không quan tâm lắm tới kết quả. Về nhà nếu là con trai cậu sẽ hì hục ráp 1 máy bắn bóng, là gái thì nàng sẽ vẽ mình ném rổ với mái tóc dài bay tung và xoay lật góc nào thì nàng vẫn ở vị trí trung tâm.
4. Chẳng nói nhiều, không cần mơ mộng tính toán, chụp banh ném ngay trúng rổ. Trong tư thế đã giống y tư thế thầy hướng dẫn. Ở Mỹ thì Tèo có khả năng nhận học bổng vô trường ĐH danh tiếng và chàng sẽ tốt nghiệp nhờ ghi điểm trên sân chớ không phải trên giấy.
5. Tèo nhún nhảy trong khi ném bóng và 1 giai điệu tình cờ thoáng qua trong óc, vớ ghita chàng bật bông vài giai điệu nghe già dặn hơn tuổi. Nhưng thời buổi internet sẽ làm Tèo khó giữ được bản sắc riêng của mình mà sự nhái vô thức hay cố tình rồi sẽ bị đám đố kỵ tung hê khi chàng có tiếng
6. Khi ném banh Tèo biết ai làm việc này tốt nhất, và thầy nào có thể giúp đội cũng như đội hình gồm có ai. Kết nối 1 cách tự nhiên chẳng cần ai thúc giục là thế mạnh của Tèo, điều này làm giáo viên không khoái cho nên các lãnh đạo hồi nhỏ thường bị thầy chê dốt là vì vậy.
7. Ném banh mà Tèo biết ngay tần số rung động của mình, Tèo giải mã nội tâm 1 cách thật rõ ràng như việc Tèo mường tượng trái banh bay theo đường nào, xoay theo chiều nào. Khi cần Tèo có thể thể hiện vài 3 tính cách trong 1 con người làm phụ huynh, giáo viên ngạc nhiên tột độ.
8. Vậy nhiệm vụ của ban giám khảo là làm gì?
Hãy cho Tèo thi môn sở trường hay môn sở đoản?
(http://trananhtuan.com/7-loai-tri-thong-minh-cua-con-nguoi/)

Thứ Tư, 20 tháng 9, 2017

Vì sao công ty thất bại


Chọn người theo kiểu rượu ngâm nước 3,4 trách chi nhạt
Trị người theo kiểu chủ đìa vác gậy đánh đám hôi đìa


Bước vào 4.0 nên CEO lo lắm quyết định phải thay đổi. 1 khẩu hiệu to tướng được căng lên:
"Thay đổi hay là chết"
Và triệu tập họp gấp toàn bộ các trưởng bộ phận thông báo tình hình và nhiệm vụ mới, nói:
Công ty của ta từ khi khởi nghiệp tới nay trải qua mấy giai đoạn:
- (1):  may gọi vốn được rồi ta nhanh trí lập công ty riêng tuồn vốn qua đó. Sau công ty phá sản, nhà đầu tư thiên thần tức ói máu nhưng nhờ thế mà có công ty
- (2): giai đoạn bán hàng đa cấp huy hoàng huy động được hàng vạn người. Đến thời Ponzi sụm bã chè thì ta chuyển qua
- (3): khoán cho từng bộ phận, thân ai nấy lo vì nước thì đục mà anh em ta toàn tay câu giỏi
Nhưng giờ tình hình thay đổi rồi, khó làm theo cách cũ vì nước trong ra, cá thì rỉa mồi, mà ta đánh đề nhiều nên nợ quá.
Cả nhóm chụm đầu bàn bạc rồi cụ Tỉ đứng đầu 1 phòng phát biểu:
Sếp thật sáng suốt, giờ là thời đại không có tri thức thì không có sức mạnh nhưng giờ ta tìm tri thức ở đâu? Xưa có mấy thằng hay nho nhe ta đuổi sạch rồi.
CEO quyết:
Cái đó không phải lo, giờ ta phát động phong trào mỗi người 10 phút 1 ý tưởng, hễ ai có ý tưởng thì báo cáo tôi, thấy ok là tôi tập hợp anh em họp lại cho ý kiến 3 thợ da bằng 1 Gia Cát Lượng.
Từ đó công ty người thì đi học, người thì lên Gúc, người thì ra cafe nghe ngóng...phong trào thi đua ý tưởng sôi nổi lắm.
Sau 1 thời gian tình hình kinh doanh ngày càng bí bét, 1 cuộc họp mổ xẻ nguyên nhân diễn ra:
phòng ban nào cũng báo đã đưa được bao nhiêu sáng kiến đổi mới vô quy trình làm việc, bao ý tưởng mới triển khai, bao lượt người học, bấm like, tweet...
Mọi người đều hào hứng cho tới khi 1 người rón rén phát biểu:
Quy trình chúng ta tốt, bao bì đẹp, marketing sâu, bán hàng điêu luyện, ý tưởng hay tràn ngập nhưng ta có nhõn sản phẩm cũ nên khách hàng họ vẫn nhận ra.

Thứ Năm, 7 tháng 9, 2017

Sự giúp của Bụt


Dân VN rất khoái được người khác giúp, đại ca càng tốt. Mỗi khi có người giúp là như hùm như hổ, làm được hẳn những chuyện như mắm người thân cho nên chuyện cổ tích nào mỗi khi gặp khó khăn ngồi khóc thì Bụt cũng hiện ra và giải quyết ngay và luôn cục khó đó.
Mà không chỉ cổ tích, xưa trừ khi chống quân TQ xâm lược còn lại đều xưng thần, chịu sự che chở của thiên triều. 
Khi Pháp xâm lược, nhà Nguyễn nhờ nhà Thanh. Đánh Pháp nhờ Mao. 54-75, MB nhờ LX, TQ còn MN nhờ Mỹ, 79 chống TQ lại nhờ LX...
Bụt là tên gọi khác của Phật (https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%ADt). Đạo Phật do 1 hoàng tử Ấn độ lập nên chủ trương mỗi người tự giác ngộ nên số người ngộ Phật thì ít mà đa số còn lại là ngộ tưởng.
Theo chữ Ngộ tiếng Việt thì tới chữ Ngộ phải trải qua mấy giai đoạn sau:
- Ngô: có lòng hướng tới nhưng còn Ngô ngọng, nói gọn chưa thuộc bài
- Ngồ: Ý nghĩ về Phật ấp ủ trong lòng, kinh sách đọc vài quyển
- Ngố: đem những kiến thức học được ra hành 1 cách rập khuôn máy móc, chưa nhuần nhuyễn khác người thường, không tự nhiên, có vẻ lên gân nên gọi là ngố (không riêng đạo Bụt mà bất kỳ ai theo lý thuyết nào cũng trải qua giai đoạn này cực nhiều)
- Ngổ: Muốn nóng lòng xiển dương, thi hành những điều mình biết mà không quan tâm tới hoàn cảnh, người xung quanh nên gọi là ngổ ngháo.
- Ngỗ: Bị vấp nhiều thấy mình sai nên chất vấn, nghi ngờ có phải đạo ta sai không, lạc lõng không nên nhiều khi ngỗ ngược chê Đạo.
- Ngộ: vượt qua hết mới tới chữ này, gian nan và không dành cho số đông (https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%E1%BB%99)
Giờ quay lại chuyện Bụt. Số là có BT bộ Giục nó nhận lãnh trách nhiệm thì thấy vai mỏng cánh chuồn là gánh trách nhiệm năng mới ra bờ resort khóc, y như Bụt hiện lên hỏi vì sao con khóc?
- Thưa nước con nghèo nàn lạc hậu. Muốn thoát khỏi cảnh đó con cần rất nhiều TS, ThS rồi GSTS để cất cánh.
Bụt chẳng nói gì lấy trong giỏ ra 3 bộ sách nói:
- Đây là 3 bộ mẫu đào tạo ĐH, cao học, TS
Mừng quá bà về giao cho 3 thứ trưởng dưới quyền triển khai gấp. 
Khoảng 30 năm sau CN, ThS, TS nhan nhản đầy đường mà đất nước vẫn nghèo nàn lạc hậu thì bà (lúc này hưu lâu rồi) mới lấy 3 quyển sách Bụt giao ra đọc thì hóa ra nó khác mỗi cái bìa, còn trong y chang à. 
Bà lẩm bẩm thể nào mà không thể phân biệt được sự khác nhau giữa TS, ThS, CN rồi chuyên viên, CV chính, chuyên viên cao cấp, Lý luận trung cấp, cao cấp... ở xứ này.
Nguồn cơn là đây, giận mình quá tin Bụt không kiểm tra lại nên cớ sự này bà liền khóc rất to. Bụt hiện lên hỏi:
- Vì sao con khóc
- Bụt biết rồi còn hỏi
Bụt nói ta vốn theo dõi Khổng nho dạy, học, thi. Thấy rằng có 3 kỳ thi hương, thi hội thi đình.
- Thi hương nôm na thi cấp tỉnh, ai qua vòng này được thi hội. Ai đậu thi hương là coi như ổn về sinh kế làm thầy đồ dạy học trường làng được.
- Thi hội đậu là thành tú tài, mấy tú tài quay lại luyện thi cho nhưỡng ai thi hương, thi đình
- Thi đình đậu thành cử nhân, thủ khoa thì tiến sỹ
Đó, sự thi xưa và cấp bậc vậy đó mà cấp nào thì cũng không qua khỏi bộ tứ thư ngũ kinh.
Khi con khóc ta thương lắm mới đưa 3 bộ của 1 đứa làm luận án thuê nó bỏ quên ta nhặt được chớ ta công đâu mà chép tới 3 quyển lận.
Theo các bạn, sau khi được Bụt giải thích bả còn khóc nữa hay không?
 

Thứ Năm, 31 tháng 8, 2017

Năm 2012

ĐỀ ÁN THÀNH LẬP CHI NHÁNH UBCKNN TẠI TPHCM

I. Đánh giá mô hình Cơ quan Đại diện:

1.      Chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức:

a. Lịch sử hình thành:
Xây dựng và phát triển TTCK là một mục tiêu đã được Đảng và Chính phủ Việt Nam định hướng trong những năm đầu thập kỷ 90 nhằm xác lập một kênh huy động vốn mới cho đầu tư phát triển. Ngày 6/11/1993, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định số 207/QĐ-TCCB về việc thành lập Ban Nghiên cứu xây dựng và phát triển thị trường vốn để tổ chức nghiên cứu về các lĩnh vực liên quan đến Thị trường chứng khoán (TTCK), đề xuất với Chính phủ về mô hình TTCK Việt Nam, đào tạo kiến thức cơ bản về chứng khoán và TTCK cho một bộ phận nhân lực quản lý và vận hành thị trường trong tương lai,…Lúc này, Cơ quan đại diện UBCKNN tại TPHCM là một bộ phận của Ban Nghiên cứu xây dựng và phát triển thị trường vốn tại khu vực phía Nam.
Ngày 28/11/1996, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 75/CP thành lập UBCKNN. Với mục đích chuẩn bị điều kiện cho sự ra đời của TTCK, tạo môi trường thuận lợi cho việc huy động vốn cho đầu tư phát triển, đảm bảo cho TTCK hoạt động an toàn, công khai, công bằng và hiệu quả, bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư, UBCKNN được thành lập với vị trí là Cơ quan trực thuộc Chính phủ thực hiện chức năng tổ chức và quản lý nhà nước về CK và TTCK. Tại thời điểm này, Cơ quan đại diện là một đơn vị trực thuộc UBCKNN, thực hiện các nhiệm vụ theo ủy quyền của Chủ tịch UBCKNN, phối hợp với các Vụ chuyên môn, Vụ chức năng thuộc UBCKNN thực hiện nhiệm vụ được giao, giúp Chủ tịch thực hiện chức năng quản lý nhà nước về chứng khoán và TTCK.
Năm 2000, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh chính thức đi vào hoạt động với 05 công ty niêm yết.  Sau hơn 3 năm TTCK đi vào hoạt động, quy mô thị trường vẫn còn nhỏ, chưa trở thành một kênh huy động vốn dài hạn có hiệu quả cho đầu tư phát triển. Tính đến cuối năm 2003, thị trường có 22 công ty niêm yết với mức vốn hóa thị trường 2.370 ngàn tỷ đồng, chiếm 0,39%GDP. Tham gia thị trường chỉ có 01 công ty quản lý quỹ, 12 công ty chứng khoán và chủ yếu là các nhà đầu tư nhỏ lẻ, thiếu vắng các nhà đầu tư chuyên nghiệp, các công ty lớn, các nhà đầu tư có tổ chức như quỹ đầu tư, công ty chứng khoán. Hơn nữa, tốc độ cổ phần hóa diễn ra chậm chạp, các công ty lớn chưa muốn niêm yết trên thị trường tập trung. Để tăng cường công tác tổ chức, điều hành TTCK hoạt động một cách có hiệu quả hơn, năm 2003 Chính phủ ban hành nghị định số 90/2003/NĐ-CP ngày 12/8/2003 thay thế Nghị định 75/CP. Công tác chủ yếu của UBCKNN trong giai đoạn này là chuẩn bị hành lang pháp lý, tạo cung hàng hóa trên thị trường; tổ chức tuyên truyên, phổ biến kiến thức về chứng khoán và TTCK cho các tổ chức và công chúng. Theo Nghị định này, Cơ quan đại diện UBCKNN tại TPHCM không còn là một đơn vị trực thuộc UBCKNN mà là một bộ phận của Văn phòng UBCKNN đặt tại TPHCM. Do đó, mô hình Cơ quan đại diện là một đầu mối của Văn phòng UBCKNN là phù hợp với tình hình, chức năng, nhiệm vụ của UBCKNN.
Năm 2004, thực hiện chương trình cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 của Chính phủ, UBCKNN không còn là Cơ quan quản lý nhà nước trực thuộc Chính phủ mà chuyển vào Bộ Tài chính (Quyết định số 66/2004/NĐ-CP ngày 19/2/2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc chuyển UBCKNN vào Bộ Tài chính). Theo đó, ngày 7/9/2004, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định số 161/2004/QĐ-TTg quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của UBCKNN. Để ổn định tổ chức, hoạt động trong thời gian đầu mới sáp nhập vào Bộ Tài chính; về cơ bản, chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức bộ máy của UBCKNN vẫn giữ nguyên như trước, Cơ quan đại diện UBCKNN vẫn là một bộ phận thuộc UBCKNN đặt tại TPHCM.
Năm 2006-2007, TTCK bắt đầu khởi sắc và có sự tăng trưởng mạnh mẽ. Số lượng công ty niêm yết tăng vọt, tính đến cuối năm 2007, đã có 253 công ty niêm yết trên cả hai sàn giao dịch. Tổng giá trị vốn hóa thị trường tính tại thời điểm 31/12/2007 ước đạt 492.900 ngàn tỷ đồng, tương đương 40%GDP cả năm 2007. Trong năm 2006, có 44 công ty cổ phần thực hiện việc chào bán hơn 203 triệu cổ phiếu, và đến năm 2007, hoạt động phát hành thực sự bùng nổ với gần 200 đợt phát hành của 192 công ty và 4 ngân hàng thương mại. Tổng lượng vốn huy động lên đến gần 40.000 tỷ đồng. Năm 2007 cũng chứng kiến kỷ lục cao nhất của chỉ số chứng khoán Việt Nam, VN Index đạt mức 1.170,67 điểm và HASTC Index đạt 459.36 điểm. Số lượng công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ tăng đáng kể (1 công ty QLQ, 12 CTCK  năm 2003 lên 25 Công ty QLQ, 78 CTCK trong năm 2007). Trước sự phát triển quá nóng của thị trường chứng khoán, sau 3 năm sáp nhập vào Bộ tài chính; tình hình hiện tại đòi hỏi phải tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động các tổ chức tham gia trên TTCK;  UBCKNN đã trình Bộ Tài Chính trình Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức mới.
 Thủ tướng Chính phủ và Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ban hành những quyết định quy định chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của UBCKNN và các đơn vị trực thuộc: Quyết định 63/2007/QĐ-TTg ngày 10/5/2007 của Thủ tướng Chính phủ, Quyết định 02/2008/QĐ-UBCK ngày 14/1/2008 và Quyết định số 49/2008/QĐ-BTC ngày 08/7/2008 của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Theo đó, UBCKNN có thêm 2 Vụ chuyên môn: Vụ Giám sát thị trường chứng khoán và Vụ Quản lý các công ty quản lý quỹ và quỹ đầu tư chứng khoán; các tổ chức sự nghiệp sẽ chuyển đổi gồm: Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TPHCM, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán; Trung tâm Lưu ký Chứng khoán. Thời kỳ này, Cơ quan Đại diện không còn là một bộ phận của Văn phòng UBCKNN mà là một đơn vị có con dấu và tài khoản riêng, trực thuộc UBCKNN; có cơ cấu tổ chức bộ máy gồm: phòng Hành chính – Tổng hợp và Phòng Nghiệp; được tăng cường chức năng nhiệm vụ để giúp Chủ tịch và các đơn vị chuyên môn thực hiện công tác giám sát các cá nhân và tổ chức hoạt động trên thị trường chứng khoán tại địa bàn phía Nam.
Theo kế hoạch của Quyết định 63/2003/2007/QĐ-TTg, năm 2007-2009, lần lượt các đơn vị sự nghiệp: Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TPHCM, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội, Trung tâm Lưu ký Chứng khoán trở thành pháp nhân độc lập nhằm tách bạch chức năng quản lý nhà nước trong hoạt động chứng khoán và chức năng tổ chức vận hành TTCK. Do vậy, quyết định số 112/2009/QĐ-TTg ngày 11/9/2009 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức UBCKNN được ban hành thay thế Quyết định số 63/2003/2007/QĐ-TTg ngày 10/5/2007 của Thủ tướng Chính phủ. Theo các quyết định mới, Cơ quan Đại diện vẫn là một đơn vị trực thuộc UBCKNN, có con dấu và tài khoản riêng để thực hiện nhiệm vụ Chủ tịch UBCKNN giao.
Từ khi được thành lập đến nay, Cơ quan đại diện đã trải qua những thay đổi trong vị trí, chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức. Đây là điều tất yếu, bởi nó phù hợp với quá trình hình thành và phát triển của UBCKNN, theo từng giai đoạn phát triển thăng trầm của TTCK Việt Nam.

b. Nhiệm vụ hiện tại:
Quyết định 389/QĐ-BTC ngày 23/2/2010 quy định CQĐD là đơn vị có tư cách pháp nhân, con dấu riêng, tài khoản riêng với cơ cấu tổ chức gồm các phòng: Phòng Nghiệp vụ và Phòng Hành chính – Tổng hợp, thực hiện các chức năng, nhiệm vụ như sau:
- Tổ chức hoặc phối hợp với đơn vị chuyên môn của UBCKNN triển khai các chủ trương, chính sách và các hoạt động khác của UBCKNN về CK&TTCK trên địa bàn TPHCM và các tỉnh, thành phố phía Nam;
- Phối hợp với Vụ Quản lý phát hành chứng khoán giám sát, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật trong việc chào bán chứng khoán ra công chúng, vi phạm pháp luật về công ty đại chúng, vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư; tiếp nhận, hướng dẫn các doanh nghiệp hoàn chỉnh hồ sơ đăng ký công ty đại chúng; tham dự đại hội công ty đại chúng đã đăng ký trên địa bàn. Tiếp nhận các báo cáo, các thông tin công bố theo quy định của các công ty đại chúng tại khu vực phía Nam và báo cáo về UBCKNN để tổng hợp;
- Phối hợp với các đơn vị có liên quan thuộc UBCKNN giám sát việc tuân thủ pháp luật của Sở Giao dịch Chứng khoán TPHCM và Chi nhánh Trung tâm LKCK tại TPHCM;
- Phối hợp với Vụ Quản lý kinh doanh chứng khoán và Vụ Quản lý các công ty quản lý quỹ và quỹ đầu tư chứng khoán khoán giám sát việc tuân thủ pháp luật của người hành nghề trong các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán; kiểm tra việc đảm bảo điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật của các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, chi nhánh, văn phòng giao dịch của các tổ chức kinh doanh chứng khoán tại TPHCM và các tỉnh thành phố phía Nam;
- Phối hợp với các đơn vị thuộc UBCKNN thực hiện việc giám sát, kiểm tra xác minh những hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp của các tổ chức, cá nhân hoạt động trên thị trường chứng khoán trên địa bàn, thông qua các báo cáo tài chính, thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng, tin đồn, dư luận, báo cáo Chủ tịch UBCKNN để chỉ đạo, xử lý kịp thời;
- Tổ chức tuyên truyền, phổ biến kiến thức và pháp luật về chứng khoán, thị trường chứng khoán và quản trị công ty cho các công ty đại chúng, các tổ chức, cá nhân tham gia TTCK và công chúng đầu tư;
- Tiếp nhận, tổng hợp và phân tích thông tin, tình hình thị trường, dự báo xu hướng, nhằm tham mưu cho Lãnh đạo UBCKNN trong việc hoạch định các chính sách, giải pháp nhằm ổn định, phát triển TTCK;
- Tổ chức quản lý cán bộ, công chức, quản lý kinh phí và tài sản của CQĐD, thực hiện hạch toán, kế toán và quản lý chi tiêu tài chính của đơn vị theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của UBCKNN;
- Thực hiện công tác văn phòng, công tác đối ngoại của UBCKNN theo phân công, ủy quyền của Chủ tịch UBCKNN; Tham gia đoàn thanh tra, kiểm tra củ UBCKNN theo quyết định của Chủ tịch UBCKNN;
- Thực hiện chế độ báo cáo định kỳ, đột xuất lên chủ tịch UBCKNN và các đơn vị có liên quan thuộc UBCKNN theo quy định.

2.      Đánh giá ưu, nhược điểm:
a. Với cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ hiện tại, Cơ quan đại diện có những thuận lợi:
- Cơ quan đại diện có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng, nên vai trò, vị thế tăng lên so với trước; tăng tính chủ động trong việc quản lý tài sản, chi tiêu,…;
- Cơ quan đại diện có tổ chức cấp phòng, có đầu mối quản lý rõ ràng, dẫn đến việc điều hành, quản lý biên chế, phân công nhiệm vụ dễ dàng và thống nhất từ trên xuống dưới;
- Cơ quan đại diện được đề nghị các đơn vị liên quan cung cấp số liệu, phục vụ cho công tác, nghiệp vụ chuyên môn được giao;
- Chủ động trong công tác tổ chức, tuyên truyền phổ biến văn bản quy phạm pháp luật,  kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán cho các đối tượng thuộc địa bàn quản lý.

b. Những tồn tại, hạn chế:
Bên cạnh những thuận lợi, chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Cơ quan đại diện vẫn bộc lộ những hạn chế trong tình hình hiện tại, cụ thể:
- Theo quy định, Cơ quan đại diện đang thực hiện nhiệm vụ theo cơ chế phối hợp với các đơn vị chuyên môn thuộc UBCKNN, chưa được phân cấp, ủy quyền trong từng lĩnh vực cụ thể nên vai trò đại diện của UBCKNN trên các mặt thông tin, tiếp nhận yêu cầu của các địa phương, tổ chức, công ty,…tại địa bàn phía Nam không rõ nét;
- Theo cơ chế phối hợp hiện tại, Cơ quan đại diện hoàn toàn thụ động, kém linh hoạt trong việc thực thi nhiệm vụ được giao. Dẫn đến công việc không đều, không thường xuyên; cán bộ, công chức ít được tiếp xúc với thực tiễn. Trong khi đó, công tác giám sát, kiểm tra thông tin cần nhanh nhạy, kịp thời, và nhiều kinh nghiệm.
- Với các nhiệm vụ chuyên môn được giao, Cơ quan đại diện tham gia hỗ trợ nhiều mảng nghiệp vụ khác nhau, giám sát nhiều đối tượng khác nhau như: công ty đại chúng, công ty quản lý quỹ, công ty chứng khoán. Tuy nhiên, với cơ chế phối hợp hiện tại, Cơ quan đại diện không thực sự tham gia sâu vào nghiệp vụ cụ thể nào. Trong khi các hành vi vi phạm của các đối tượng trên địa bàn ngày càng nhiều và phức tạp, đòi hỏi cơ quan quản lý phải chuyên sâu nghiệp vụ, nắm bắt thông tin nhanh, xử lý kịp thời.
- Hiện nay, các đơn vị chuyên môn tại UBCKNN đang quá tải với khối lượng công việc được giao. Mỗi đơn vị chỉ có 20-30 cán bộ, công chức nhưng quản lý tới trên 700 công ty niêm yết, gần 1000 công ty đại chúng, 47 công ty quản lý quỹ, 105 công ty chứng khoán, với trên 95.000 tài khoản giao dịch, số lượng người hành nghề tăng nhanh. Trong khi, với lợi thế là đơn vị đóng tại trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh, địa bàn kinh tế trọng điểm, tập trung nhiều công ty đại chúng, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ,…Cơ quan đại diện dễ dàng nắm bắt thông tin; sâu sát tình hình; nhanh chóng, kịp thời xử lý các trường hợp phát sinh tại Thành phố Hồ Chí Minh. Hơn nữa, sẽ tiết kiệm kinh phí quản lý cho nhà nước do ở gần, không tốn kinh phí đi lại. Tuy nhiên, với mô hình hiện tại, Cơ quan đại diện chưa hoạt động hết năng lực, công suất do chưa được giao đủ thẩm quyền trong từng lĩnh vực. Điều này dẫn đến lãng phí nguồn lực, kinh phí của nhà nước, giảm hiệu quả trong công tác quản lý.

3. Sự cần thiết chuyển đổi mô hình Cơ quan đại diện theo mô hình Chi nhánh UBCKNN khu vực 3:
Theo quy định tại điều 100 của Luật Dân sự quy định: “Văn phòng đại diện là đơn vị phụ thuộc có pháp nhân, có nhiệm vụ đại diện theo ủy quyền cho lợi ích của pháp nhân và thực hiện việc bảo vệ các lợi ích đó. Chi nhánh là đơn vị phụ thuộc của pháp nhân, có nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hoặc một phần chức năng của pháp nhân, kể cả chức năng đại diện theo ủy quyền”. Như vậy, về vị trí pháp lý thì như nhau, nhưng về chức năng nhiệm vụ, quyền hạn, Chi nhánh thực hiện công việc quản lý nhà nước một cách trực tiếp, rõ ràng hơn so với Văn phòng đại diện.
Hiện nay, Cơ quan đại diện UBCKNN tại TPHCM đang thực hiện theo mô hình Văn phòng đại diện của pháp nhân (UBCKNN). Như đã phân tích ở trên, theo quá trình phát triển của TTCK, mô hình Cơ quan đại diện đã bộc lộ những hạn chế nhất định, nên cần phải có cơ quan quản lý nhà nước có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng, có tài khoản riêng và được phân định những thẩm quyền nhất định để quản lý, giám sát hoạt động của thị trường tại Tp.HCM và các tỉnh thành phố phía Nam. Khi UBCKNN khu vực (Chi nhánh UBCKNN tại TP.HCM) được thành lập, cơ quan này sẽ phát huy hiệu quả quản lý tối đa nhờ tiết kiệm được rất nhiều kinh phí quản lý cho cơ quan nhà nước, tránh lãng phí, tiết kiệm thời gian cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư, triển khai và giám sát thị trường hiệu quả nhờ khoảng cách địa lý gần. Do vậy, việc chuyển đổi Cơ quan đại diện theo mô hình Chi nhánh là điều tất yếu để phù hợp với tình hình thực tế.
Đối với TTCK Việt Nam, tuy mới hình thành nhưng nó cũng có những điểm tương đồng với các ngành khác khi đối tượng quản lý là các công ty đại chúng, các định chế trung gian như công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, quỹ đầu tư, công ty luật, công ty kiểm toán, ngân hàng giám sát…, các Sở giao dịch nằm rải rác trên nhiều tỉnh, thành trong đó tập trung tại 3 khu vực có nền kinh tế phát triển năng động là Hà Nội, Đà Nẵng và TPHCM. Bên cạnh đó, là nơi cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng; cung cấp vốn, đánh giá giá trị doanh nghiệp và tình hình của nền kinh tế; tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô nên hoạt động của thị trường rất phong phú, đa dạng và ngày càng phức tạp đòi hỏi cơ quan quản lý nhà nước phải luôn bắt nhịp cùng hoạt động của thị trường, phải có một bộ máy giám sát có hiệu quả. Tuy nhiên, cho đến nay, UBCKNN chỉ là cơ quan trực thuộc Bộ Tài chính thực hiện quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán trong cả nước. UBCKNN hiện chỉ được tổ chức ở Trung ương với các Vụ, Cục chuyên môn và một cơ quan đại diện tại TP.HCM thực hiện chức năng ủy quyền của Chủ tịch. Việc thiết lập cơ quan quản lý tại địa bàn trọng yếu để thực hiện tốt chức năng quản lý là một đòi hỏi khách quan.
Yêu cầu này càng trở nên cấp bách khi Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2011-2020 đã được Chính phủ phê duyệt, với mục tiêu “tăng quy mô, củng cố tính thanh khoản cho thị trường chứng khoán, phấn đấu đưa tổng giá trị vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt khoảng 70% GDP vào năm 2020, tăng tính hiệu quả cho thị trường trên cơ sở tái cấu trúc tổ chức thị trường chứng khoán, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng, chuyên nghiệp hóa việc tổ chức và vận hành hạ tầng công nghệ thông tin, nâng cao sức cạnh tranh của các định chế trung gian thị trường, các tổ chức phụ trợ thị trường và của thị trường chứng khoán Việt Nam, tăng cường năng lực quản lý, giám sát, thanh tra, xử lý vi phạm, củng cố lòng tin của nhà đầu tư...” Để đạt được điều này, ngoài việc hoàn thiện khung pháp lý thì vấn đề  nâng cao năng lực quản lý là việc làm cấp bách.
Thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm kinh tế phát triển năng động nhất nước với sự  phát triển mạnh trải theo bề rộng  và sự tăng quy mô thị trường tại đây cũng như các tỉnh thành phố lân cận trong thời gian qua sẽ tạo đà cho sự phát triển của thị trường chứng khoán trong thập kỷ sau.  Các công ty đại chúng, công ty niêm yết, các định chế trung gian và số lượng nhà đầu tư chứng khoán  sẽ phát triển nhanh chóng. Trong điều kiện TTCK phát triển, quy mô thị trường ngày càng tăng, phát sinh nhiều nghiệp vụ mới, hành vi vi phạm của đối tượng tham gia thị trường ngày càng phức tạp (vi phạm về công bố thông tin, chào bán chứng khoán ra công chúng, đạo đức nghề nghiệp, chỉ tiêu an toàn tài chính, thao túng,…). Trong khi đó, các Vụ chuyên môn thuộc UBCKNN đang quá tải với khối lượng công việc nhiều, ngày càng tăng. Thêm vào đó, UBCKNN ở xa, nguồn kinh phí đi lại còn hạn chế, nên chưa thể sát sao được tình hình hoạt động của các tổ chức, cá nhân hoạt động trên địa bàn các tỉnh phía Nam như thực tiễn đòi hỏi. Do đó, cần chuyển đổi Cơ quan đại diện theo mô hình Chi nhánh UBCKNN khu vực để tăng cường năng lực quản lý, giám sát, thanh tra và cưỡng chế thực thi của cơ quan quản lý nhà nước tại khu vực phía Nam cho UBCKNN. Điều này phù hợp với chiến lược phát triển Thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2011-2020 được ban hành theo Quyết định số 252/QĐ-TTg ngày 1/3/2012 của Thủ tướng Chính phủ.
Việc chuyển đổi Cơ quan Đại diện theo mô hình Chi nhánh UBCKNN khu vực không chỉ xuất phát từ yếu tố khách quan, từ nhu cầu thực tiễn, mà còn từ tham khảo mô hình cơ quan quản lý nhà nước của Việt Nam và một số nước trên thế giới.


II. Mô hình quản lý nhà nước của Việt Nam và một số nước trên thế giới:
1.      Mô hình các cơ quan quản lý nhà nước ở Việt Nam.
Với chính thể đơn nhất, Việt Nam không có khái niệm “nhà nước trung ương” hay “nhà nước địa phương” như ở một số nước mà quyền lực nhà nước được tập trung thống nhất. Song để quản lý được các ngành, các lĩnh vực ở từng địa phương nhà nước phải tổ chức hệ thống các cơ quan quản lý theo thứ bậc và hoạt động theo pháp luật.  Tuỳ vào đặc thù của các ngành, các lĩnh vực khác nhau đòi hỏi những phương thức thực hiện và cơ chế quản lý thích hợp. Vì vậy, việc phân cấp quản lý  trong các ngành, các lĩnh vực phải đáp ứng đầy đủ những yêu cầu đặc thù của từng ngành. 
Đối với các ngành kinh tế, một trong những nguyên tắc cơ bản trong quản lý nhà nước là quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo lãnh thổ. Do đặc thù về đối tượng quản lý, hầu hết các đối tượng quản lý thường rộng, nằm trên hầu hết các khu vực, các vùng lãnh thổ khác nhau nên các bộ ngành quản lý những lĩnh vực khác nhau, dù quyền lực tập trung thống nhất ở trung ương nhưng vẫn phải đảm bảo sự phân công, phân nhiệm quản lý theo chiều dọc cho các cơ quan ở địa phương nhằm đảm bảo tính hiệu quả. Có thể nói dù được tổ chức theo mô hình nào, chất lượng quản  lý của các cơ quan quản lý nhà nước phải được phản ánh bằng các chỉ số như: khoảng cách địa lý gần, thuận lợi cho các chủ thể bị quản lý, nhanh chóng và đơn giản về thủ tục. Điều này cũng cho thấy cấp quản lý nào có khả năng đạt được mục tiêu, chất lượng và yêu cầu quản lý với chi phí ít nhất và thời gian ngắn nhất thì nên giao nhiệm vụ tương ứng cho cấp đó. Các cơ quan quản lý nhà nước trong các lĩnh vực thường được tổ chức các cấp: trung ương, cấp tỉnh (thành phố trực thuộc trung ương) như Ngân hàng nhà nước, Cục Quản lý thị trường trực thuộc Bộ Công thương,  một số cơ quan còn được tổ chức ở cấp cấp quận/huyện  như  Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Kho bạc nhà nước, Tổng cục hải quan, Tổng cục thuế, Tổng cục thống kê, Tổng cục thi hành án dân sự ... để đảm bảo hiệu quả quản lý cao nhất.
Thực hiện các chức năng quản lý chuyên ngành, các cơ quan của Bộ tài chính như Kho bạc nhà nước, Tổng cục hải quan, Tổng cục thuế có cơ chế quản lý ở Trung ương và địa phương. Tổng cục Hải quan ở Trung ương có các Vụ chuyên môn, 34 cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;  Các Chi cục Hải quan: Đội Kiểm soát Hải quan và đơn vị tương đương thuộc Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Tương tự Tổng cục Thuế cũng được tổ chức ở Trung ương với các Vụ, Cục, văn phòng và Cục Thuế ở  63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là Cục Thuế cấp tỉnh và các Chi cục Thuế ở các huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là Chi cục Thuế cấp huyện). Các đơn vị ở địa phương có tư cách pháp nhân, con dấu riêng, được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, Kho bạc Nhà nước là cơ quan  được tổ chức thành hệ thống dọc từ Trung ương đến địa phương theo đơn vị hành chính, bảo đảm nguyên tắc tập trung, thống nhất bao gồm Kho bạc Nhà nước ở Trung ương;  Kho bạc Nhà nước ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Kho bạc Nhà nước ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh  và Kho bạc Nhà nước được tổ chức điểm giao dịch tại các địa bàn có khối lượng giao dịch lớn theo quy định của Bộ Tài chính. Kho bạc Nhà  nước cấp tỉnh, Kho bạc Nhà nước cấp huyện có tư cách pháp nhân, con dấu riêng, được mở tài khoản tại ngân hàng nhà nước và các ngân hàng thương mại theo quy định của pháp luật.
Trong bối cảnh chúng ta đang đẩy mạnh Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 – 2020, Chính Phủ đang nỗ lực cải tổ các cơ quan quản lý nhà nước, song điều đó không có nghĩa là chúng ta thu hẹp tất cả các cơ quan mà vấn đề đặt ra ở đây là phải thu hẹp, xóa bỏ các chủ thể quản lý không cần thiết, mở rộng thẩm quyền, thiết  lập  các cơ quan quản lý ở những lĩnh vực, địa bàn quan trọng, thiết yếu.  Sản phẩm cuối cùng trong  quá trình phân cấp quản lý là việc tạo ra những cơ quan quản lý hiệu quả, không chồng chéo về thẩm quyền để tối đa hóa mục tiêu quản lý, giảm thiểu chi phí, mang lại những thuận lợi cho chủ thể được quản lý.

2.      Mô hình cơ quan quản lý nhà nước về TTCK một số nước trên thế giới.
Không thể  có một mô hình cơ quan quản lý nhà nước nói chung và chứng khoán nói riêng cho tất cả các nước. Tuỳ vào thể chế chính trị, cấu trúc nhà nước và lịch sử hình thành, phát triển, quy mô, tính chất của thị trường chứng khoán mà mỗi nước sẽ xây dựng những mô hình cơ quan quản lý  nhà nước về chứng khoán khác nhau. Ngay cả trong cùng một nhà nước trong những thời điểm lịch sử khác  nhau, với sự phát triển của quy mô thị trường, sự phát sinh những quan hệ đa dạng, phức tạp khác nhau...nhà nước sẽ có những thay đổi mô hình quản lý để đạt hiệu quả quản lý cao nhất.
Để minh chứng cho điều này chúng ta hãy xem xét mô hình quản lý nhà nước về chứng khoán của Mỹ- nơi có lịch sử thị trường lâu đời và quy mô thị trường lớn nhất thế giới và cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán của Trung Quốc, nơi thị trường chứng khoán phát triển rất mạnh mẽ trong thời gian gần đây và có những nét tương đồng với Việt Nam.

a.      Uỷ ban chứng khoán và giao dịch của Mỹ (Securities and Exchange Commission)
Sự đổ vỡ của TTCK Mỹ năm 1929 khiến nước này đỏi hỏi phải có một cơ quan quản lý nhà nước có sức mạnh để thực thi các biện pháp đảm bảo cho hoạt động của thị trường. Uỷ ban chứng khoán và giao dịch (Securities and Exchange Commission- SEC) ra đời  năm 1934, đặt trụ sở tại  Wasgington với với 3500 nhân viên , SEC có nhiệm vụ: Giải thích pháp luật chứng khoán của Liên đang; ban hành, sửa đổi các quy định pháp luật về chứng khoán; Thanh tra hoạt động của các công ty chứng khoán,  người môi giới, tư vấn đầu tư và các tổ chức có liên quan; Giám sát hoạt động của các định chế tư trong lĩnh vực chứng khoán, kế toán và kiểm toán; Điều phối pháp luật chứng khoán của Mỹ  với Liên bang, các bang và các tổ chức quốc tế
Để điều hành và quản lý thị trường hiệu quả , ngoài các bộ phận tại trụ sở chính ở New  York, SEC  đã thành lập 11 cơ quan quản lý khu vực trên cả nước, thực hiện chức năng qủan lý của SEC tại các bang,  bao gồm
§  New York:  Thực thi nhiệm vụ và quyền hạn tại các bang New York, New Jersey,
§  Bostom: Thực thi nhiệm vụ và quyền hạn tại các bang Connecticut, Maine, Massachusetts, New Hampshire, Vermont, Rhode Island
§  Philadenphia: Thực thi nhiệm vụ và quyền hạn tại các bang Delaware, Maryland, Pennsylvania, Virginia, West Virginia, District of Columbia
§  Miami:  Thực thi nhiệm vụ và quyền hạn tại các bang Florida, Mississippi, Louisiana, U.S. Virgin Islands, Puerto Rico
§  Atlanta: Thực thi nhiệm vụ và quyền hạn tại các bang Georgia, North Carolina, South Carolina, Tennessee, Alabama
§  Chicago: Thực thi nhiệm vụ và quyền hạn tại các bang Illinois, Indiana, Iowa, Kentucky, Michigan, Minnesota, Missouri, Ohio, Wisconsin
§  Denver: Thực thi nhiệm vụ và quyền hạn tại các bang Colorado, Kansas, Nebraska, New Mexico, North Dakota, South Dakota, Wyoming
§  Fort Worth: Thực thi nhiệm vụ và quyền hạn tại các bang Texas, Oklahoma, Arkansas, Kansas (ngoại trừ một số lĩnh vực được Cơ quan quản lý khu vực Denver)
§  Salt Lake: Thực thi nhiệm vụ và quyền hạn tại  bang Utah
§  Los Angeles:  Thực thi nhiệm vụ và quyền hạn tại các bang Arizona, Hawaii, Guam, Nevada, Southern California
§   San Francissco: Thực thi nhiệm vụ và quyền hạn tại các bang Washington, Oregon, Alaska, Montana, Idaho, Northern California.
Các cơ quan quản lý khu vực có trách nhiệm thanh tra và xứ lý các hành vi vi phạm pháp luật chứng khoán tại các bang được giao quản lý. Các cơ quan này cũng duy trì bộ phận  kiểm tra để  giám sát hoạt động của các nhà tư vấn đầu tư, các công ty đầu tư và các nhà môi giới. Các hoạt động thanh tra, kiểm tra của các cơ quan này phải được báo cáo cho cả Vụ Cưỡng chề thực thi và Văn phòng thanh tra, giám sát tuân thủ tại Hội sở chính.

b.      Uỷ ban Quản lý Chứng khoán  Trung Quốc (The China Securities Regulatory Commission – CSRC)
Mặc dù được hình thành từ những năm 50 của thế ký trước nhưng  TTCK Trung Quốc phát triển manh mún, chưa ổn định, quá trình vận hành còn thô sơ, thể chế luật pháp chưa hoàn thiện. Mãi đến năm 1992  Quốc vụ viện Trung Quốc mới thành lập Ủy ban quản lý Chứng khoán Trung Quốc- là bộ phận giám sát quản lý chủ yếu thị trường giao dịch chứng khoán cả nước và năm 1999 Trung Quốc mới có Luật chứng khoán. Và cũng từ thời điểm này, TTCK  từng bước phát triển mạnh mẽ. Đi cùng sự phát triển của thị trường là một cơ quan quản  lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán – Uỷ ban chứng khoán Quốc vụ viện - không ngừng được củng cố và hoàn thiện. Tính đến  năm 2011, cơ quan này có 2.589 nhân  viên, với 699 người làm việc tại Hội sở ở Bắc Kinh và 1890 người làm việc tại  36 chi nhánh  trên cả nước.
Theo quy định tại Luật chứng khoán và các văn bản có liên quan, Uỷ ban chứng khoán nhà nước Trung Quốc là cơ quan ngang Bộ trực thuộc Hội đồng nhà nước (Chính Phủ), có trụ sở tại Bắc Kinh, có chức năng quản lý, giám sát hoạt động của TTCK và Thị trường tương lai theo quy định của pháp luật nhằm duy trì sự hoạt động ổn định của thị trường, đảm bảo cho các chủ thể tuân thủ pháp luật. Với  chức năng như trên, UBCKNN Trung Quốc được tổ chức theo mô hình quản lý nhà nước từ Trung ương đến địa phương: Hội sở chính ở Bắc Kinh với  4 Hội đồng, 21 phòng chức năng, 4 tổ chức phụ trợ  trực thuộc, thực hiện chức năng quản lý chung các hoạt động của thị trường, xây dựng cơ chế, chính sách pháp luật, các hoạt động quan hệ quốc tế.
Uỷ ban chứng khoán nhà nước cũng thành lập Cơ quan giám sát SGDCK Thượng Hải, Cơ quan giám sát SGDCK Thẩm Quyến và 36 Chi nhánh đặt tại 36 tỉnh, thành gồm:  Thiên tân, Thượng Hải, Hồ Bắc, Thẩm Quyến, Thiểm Tây, Triết Giang, Hồ Nam, Trùng Khánh, Sơn Tây, Hải Long Giang, Đại Liên, An Huy, Giang Tây, Quảng Tây, Hải Nam, Quế Châu, Cam Túc,  Thanh Hải, Liêu Ninh, Sơn Đông, Quảng Đông, Tứ Xuyên, Giang Tô, Hà Nam, Bắc Kinh, Hà Bắc, Nội Mông Cổ, Cát Lâm, Ninh Ba, Thanh Đảo, Phúc Kiến, Hạ Môn, Vân Nam, Tây Tạng, Ninh Hạ, Tân Cương. Các chi nhánh được phân quyền để thực hiện quản lý , giám sát  các hoạt động của TTCK, các công ty niêm yết, các công ty tư vấn đầu tư  và các định chế trung gian như các công ty tư vấn luật, công ty kiểm toán, các tổ chức định giá tài sản. Đặc biệt, hầu hết các chi nhánh đều có bộ phận thực hiện chức năng thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực chứng khoán và hoà giải các tranh chấp của các tổ chức, cá nhân kinh doanh chứng khoán trên địa bàn quản lý.
 Với  nhiệm vụ được giao, các chi nhánh đều thiết lập các phòng ban chuyên môn để thực thi chức năng quản lý như:  Văn phòng (Phòng Nội vụ), Phòng giám sát các công ty niêm yết, Phòng giám sát các định chế trung gian (Một số chi nhánh còn thành lập Phòng quản lý QĐT), Phòng Thanh tra, Phòng Kiểm soát nội bộ, Phòng quản lý chứng khoán phái sinh, Phòng Nghiên cứu và thu thập thông tin, Phòng pháp chế, Phòng Quan hệ quốc tế.
Khi xem xét các mô hình cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán, chúng ta nhận thấy hầu hết các nước đều duy trì mô hình quản lý thống nhất nhưng có sự phân quyền ở những địa phương, những khu vực nhất định, nơi thị trường phát triển mạnh mẽ và tập trung đông các chủ thể bị quản lý. Điều này cũng dễ dàng lý giải bởi quản lý mang tính quyền lực nhà nước không thể quản lý từ xa, đặc biệt chứng khoán là một ngành đặc thù, cơ quan quản lý phải  tạo cơ chế để thị trường có những hàng hoá chất lượng,  duy trì sự hoạt đông công khai, minh bạch, giám sát và ngăn ngừa các vi phạm triệt để, do đó cơ quan quản lý phải có những quyết sách, những biện pháp xử lý kịp thời để thị trường hoạt động ổn định.  Với các thị trường phát triển như Mỹ, Trung Quốc và một số nước khác, CQQL  về TTCK có thể có những chi nhánh ở nhiều khu vực nơi có thị trường phát triển, TTCK VN cũng đang từng bước phát triển mạnh mẽ nên nhu cầu có CQQL nhà nước ở những khu vực nhất định là đòi hỏi khách quan để phát huy tối đa năng lực quản lý, giám sát hoạt động của thị trường hiệu quả.

III. Đề xuất mô hình:
1.      Sơ lược mô hình chi nhánh:
Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước là cơ quan trực thuộc Bộ Tài chính, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tài chính quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán; trực tiếp quản lý, giám sát hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán; quản lý các hoạt động dịch vụ thuộc lĩnh vực chứng khoán, thị trường chứng khoán theo quy định của pháp luật.
Ủy ban chứng khoán Nhà nước có các Vụ chuyên môn để thực hiện các chức năng được giao. Bên cạnh đó, Ủy ban chứng khoán còn có Cơ quan đại diện tại Thành phố Hồ Chí Minh là tổ chức hành chính thuộc Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước tổ chức, thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được giao theo quy định tại Quyết định số 112/2009/QĐ-TTg ngày 11/9/2009 của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước trực thuộc Bộ Tài chính. Tuy nhiên, mô hình Cơ quan đại diện vẫn chưa phát huy hết được hết khả năng để giúp Ủy ban chứng khoán quản lý thị trường chứng khoán ở phía Nam. Mô hình cơ quan đại diện hiện tại chỉ chủ yếu phối hợp với các Vụ chuyên môn thuộc UBCKNN, hoàn toàn bị động trong công tác quản lý nhà nước. Có thể nói, để có một Cơ quan giúp việc cho Ủy ban chứng khoán Nhà nước quản lý, giám sát hoạt động của thị trường chứng khoán ở phía Nam một cách hiệu quả thì UBCKNN nên xây dựng một Cơ quan có thể chủ động trong công tác quản lý, vẫn theo sự phân cấp ủy quyền của UBCKNN.
Mô hình được lựa chọn cho Cơ quan giúp việc cho UBCKNN được tham khảo theo mô hình của cơ chế quản lý Nhà nước Việt Nam, mô hình đã thực hiện một số nước như Trung Quốc, Mỹ ….Đồng thời, dựa trên ưu nhược điểm của các loại đơn vị phụ thuộc (Văn phòng đại diện, Chi nhánh). Đề án đề xuất lựa chọn mô hình Chi nhánh là mô hình cho Cơ quan giúp việc cho UBCKNN tại phía Nam. Với những tính năng ưu điểm của mô hình Chi nhánh, việc thành lập Chi nhánh UBCKNN sẽ phát huy được tối đa vai trò quản lý, giám sát hoạt động của thị trường chứng khoán của Cơ quan quản lý nhà nước (UBCKNN)  tại phía Nam.
Chi nhánh UBCKNN là đơn vị phụ thuộc của UBCKNN, chịu sự điều hành và lãnh đạo tập trung, thống nhất của Chủ tịch UBCKNN; có chức năng tham mưu cho Chủ tịch UBCKNN và thực hiện toàn bộ hoặc một phần chức năng của UBCKNN, kể cả chức năng đại diện theo ủy quyền. Chi nhánh UBCKNN là đơn vị hạch toán, kế toán độc lập, có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng và được mở tài khoản tại kho bạc Nhà nước để thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao.
Dự kiến chi nhánh UBCKNN sẽ thực hiện các chức năng nhiệm vụ trong phạm vi lãnh thổ quản lý và sự phân cấp ủy quyền, như sau:
- Tổ chức phổ biến, chỉ đạo, triển khai thi hành các văn bản quy phạm pháp luật đến các đối tượng tham gia thị trường chứng khoán trên địa bàn quản lý;
- Tổ chức thực hiện chiến lược, kế hoạch, chương trình, dự án, đề án thuộc lĩnh vực chứng khoán và TTCK sau khi được cấp có thẩm quyền ban hành hoặc phê duyệt trên địa bàn quản lý;
- Tổng hợp và phân tích thông tin, tình hình thị trường, dự báo xu hướng trên địa bàn quản lý, nhằm tham mưu cho Lãnh đạo UBCKNN trong việc hoạch định các chính sách, giải pháp nhằm ổn định, phát triển TTCK;
- Thực hiện nhiệm vụ cấp, gia hạn, đình chỉ, thu hồi giấy phép, giấy chứng nhận; chấp nhận những thau đổi liên quan đến hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán đối với các đối tượng tham gia TTCK trên địa bàn theo ủy quyền của Chủ tịch UBCKNN và quy định của pháp luật;
- Tổ chức, thực hiện công tác thanh tra, giám sát, xử lý vi phạm đối với hoạt động của các cá nhân, tổ chức tham gia TTCK trên địa bàn theo quy định của UBCKNN và của pháp luật;
- Thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, công khai tài sản, tài chính theo quy định của Chủ tịch UBCKNN và của pháp luật;
- Tổ chức quản lý cán bộ, công chức, quản lý kinh phí và tài sản của CQĐD, thực hiện hạch toán, kế toán và quản lý chi tiêu tài chính của đơn vị theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của UBCKNN;
- Thực hiện công tác văn phòng, công tác đối ngoại của UBCKNN theo phân công, ủy quyền của Chủ tịch UBCKNN;
- Thực hiện chế độ thông tin, báo cáo định kỳ theo quy định của UBCKNN;
- Thực hiện các nhiệm vụ khác do Chủ tịch UBCKNN giao.
Để thực hiện tốt các chức năng và nhiệm vụ được giao, Chi nhánh UBCKNN phải có các phòng ban chức năng chuyên biệt (chủ yếu tập trung vào nghiệp vụ thanh tra, giám sát). Cơ cấu tổ chức, nhân sự sẽ phát triển theo giai đoạn, ban đầu có thể là:
            + 01 Giám đốc Chi nhánh (hàm Vụ trưởng)
            + 02 Phó Giám đốc Chi nhánh
+ Phòng hành chính – nhân sự
+ Phòng kế toán
+ Phòng giám sát
+ Phòng thanh tra
+ Phòng nghiên cứu tổng hợp.
2.Ưu nhược điểm của việc chuyển đổi từ Cơ quan đại diện sang Chi nhánh:
Mỗi mô hình quản lý nhà nước đều có những ưu, nhược điểm nhất định. Điều quan trọng là tại từng thời điểm, từng giai đoạn, cách vận dụng mô hình nào sẽ phát huy được tối đa ưu điểm, giảm thiểu những nhược điểm, đảm bảo đạt hiệu quả cao trong công tác quản lý nhà nước. Chuyển đổi mô hình Cơ quan đại diện sang mô hình Chi nhánh cũng có những ưu điểm, gặp những khó khăn, vướng mắc, cụ thể:
a.      Ưu điểm:
- Thống nhất với mô hình quản lý của các Bộ, Ban ngành trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng (giống như mô hình hoạt động của Ngân hàng Nhà nước).
- Tăng cường sức mạnh quản lý của UBCKNN.
- Tăng cường hiệu quả quản lý trên địa bàn: chức năng kiểm tra, giám sát sẽ được nâng cao và rõ nét, kịp thời ngăn chặn được những hành vi vi phạm pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán. UBCKNN nắm bắt thông tin về thị trường ở phía Nam nhanh chóng. Các chủ trương, chính sách và các hoạt động khác của UBCKNN về CK&TTCK sẽ được triển khai kịp thời, hiệu quả.
- Giảm tải công việc cho các Vụ chuyên môn thuộc UBCKNN.
- Ít tốn kém: tiết kiệm chi phí cho UBCKNN và doanh nghiệp.
- Hợp lý hóa việc quản lý: khi phân công ủy quyền chức năng nhiệm vụ cho Chi nhánh, UBCKNN chỉ cần nắm đầu mối thông tin về thị trường chứng khoán tại Chi nhánh quản lý, các doanh nghiệp trên địa bàn chỉ tập trung báo cáo cho Chi nhánh quản lý.
- Chủ động: Chi nhánh sẽ được chủ động, linh hoạt hơn trong việc thực thi chức năng, nhiệm vụ được giao; giúp các công việc chuyên môn được giải quyết nhanh chóng, hiệu quả hơn.
b.      Nhược điểm:
- Đội ngũ cán bộ: số lượng cán bộ vững chuyên môn, kinh nghiệm còn hạn chế. Thời gian tuyển dụng và đào tạo cán bộ mới lâu.
- Bước đầu sẽ có những xáo trộn, mất ổn định trong cơ cấu tổ chức của đơn vị do các phòng ban được phân chia ban đầu có thể bị thay đổi cho phù hợp với mô hinh và hoạt động của Chi nhánh.
3.      Các bước triển khai:
Để tăng cường chức năng quản lý nhà nước về Thị trường chứng khoán, UBCKNN nên thành lập mô hình tổ chức hoạt động dưới dạng chi nhánh ở khu vực. Trước mắt, thực hiện Chi nhánh UBCKNN tại TPHCM theo lộ trình như sau:
Bước 1: Xây dựng chức năng, nhiệm vụ cho Chi nhánh:
            - Thành lập tổ soạn thảo các chức năng nhiệm vụ cho Chi nhánh, các Phòng chuyên môn của Chi nhánh.
            - Trình UBCKNN chức năng, nhiệm vụ của Chi nhánh.
Bước 2: Chuẩn bị nhân sự và cơ sở vật chất:
- Chuẩn bị khung nhân sự cho các bộ phận, phòng khi thành lập Chi nhánh:
                  + Đào tạo lực lượng cán bộ hiện có để nâng cao trình độ nghiệp vụ.
                  +Tăng cường phối hợp công tác chuyên môn với các Vụ thuộc UBCKNN để tích lũy kinh nghiệm.
                  + Chuẩn bị nhân sự vào các vị trí của các bộ phận, phòng thuộc Chi nhánh thông qua các hình thức tuyển dụng, điều động hoặc tiếp nhận.
-  Chuẩn bị điều kiện về trụ sở làm việc, trang bị cơ sở vật chất để thành lập chi nhánh.
Bước 3: Thành lập và đưa chi nhánh vào hoạt động:
            - Ban hành Quyết định quy định chức năng nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Chi nhánh UBCKNN.
            - Bổ nhiệm nhân sự vào các vị trí của Chi nhánh.
4.      Kết luận:
Với sự phát triển của Thị trường chứng khoán, việc chuyển đổi mô hình từ Cơ quan đại diện thành Chi nhánh là cần thiết. Điều này sẽ giúp tăng cường năng lực quản lý, giám sát, thanh tra và cưỡng chế thực thi của cơ quan quản lý nhà nước cho UBCKNN tại khu vực phía Nam, tiết kiệm chi phí và thống nhất với mô hình quản lý của các Bộ, Ngành trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng và thông lệ quốc tế.
 Hơn nữa, củng cố tổ chức, chức năng của UBCKNN (trong đó có cơ cấu, tổ chức của Cơ quan Đại diện) để đảm bảo đủ thẩm quyền thực hiện các nhiệm vụ quản lý, giám sát và cưỡng chế thực thi là một trong những mục tiêu và giải pháp của Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2011-2020. Vì thế, việc chuyển đổi mô hình này đáp ứng nhu cầu thực tiễn về quản lý nhà nước đồng thời hoàn toàn phù hợp với chủ trương, định hướng phát triển Thị trường Chứng khoán Việt Nam của Nhà nước trong thời gian tới.