Chủ Nhật, 11 tháng 10, 2020

Kinh Dịch và quản trị

3. Kinh Dịch và quản trị




Kinh Dịch và quản trị Kinh Dịch là 1 tác phẩm độc đáo của người TQ. Với tác phẩm truyền thống này có 2 luồng đánh giá ngược nhau. 
 Phái thứ nhất khen ngợi hết lời, coi đây là túi khôn của dân tộc TQ, mọi trí tuệ, khôn ngoan, triết lý đều hội tụ ở đây. Hễ có việc gì khó khăn cứ mở sách này ra là có cách giải quyết. 
 Phái thứ hai thì cho rằng kinh dịch như 1 cái lồng úp, triệt tiêu hết sức sáng tạo và làm người TQ chỉ còn toàn mưu mẹo, âm mưu. Do đó cần phá bỏ. Vậy ai đúng. Trước tiên chúng ta cần nắm những khái niệm cơ bản về nó (Còn tiếp)
Những khái niệm cơ bản về kinh dịch 
 Dịch có nghĩa là biến dịch, thay đổi, thời thế, mối quan hệ hữu cơ giữa các thành tố thiên địa nhân 
 Kinh Dịch dựa trên 2 luật cơ bản là âm dương và ngũ hành. Chúng ta thường nghe: thái cực sanh lưỡng nghi, lưỡng nghi sanh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái biến hóa vô cùng... 
Thái cực hay vô cực là 1 điểm. 
 Lưỡng nghi chính là âm dương được ký hiệu bằng 1 vạch. 
 Vạch này gọi là hào. Vạch liền là hào dương chỉ tính cứng mạnh chủ động Vạch đứt là hào âm chỉ bị động, mềm yếu 
 Tứ tượng: tổ hợp 2 hào đơn được 4 tượng 
Từ tứ tượng thêm 1 hào đơn thành quẻ 3 vạch gọi là quái. 
Tổ hợp 3 hào này ra 8 gọi là bát quái. 
 Chồng 2 quái lên nhau có 6 hào (vạch). Tổ hợp 6 vạch này được 64 quẻ. 3 hào dưới gọi là nội quái, 3 hào trên là ngoại quái. Các mức độ ảnh hưởng xấu tốt gồm: 
Hay nhất là nguyên cát, đến cát hanh (tốt và hanh thông), đến cát, đến hanh, đến lợi, đến vô hối (không ăn năn), đến vô cữu (không lỗi) 
Dở nhất là hung, đến lệ (nguy), đến không lợi, đến lận (thẹn tiếc), đến có lỗi, đến ăn năn 
 Kỳ sau ta sẽ tiến hành diễn giải theo lối tư duy kinh tế hiện đại  
Kinh Dịch bắt đầu bằng Thái cực, hay còn gọi là vô cực, 1 điểm khởi đầu trống rỗng nên có thể chứa, tạo ra vạn vật. Khoa học ngày nay có khái niệm tương đương là lỗ đen nhưng lỗ đen chứa siêu năng lượng, vật chất siêu nén khi bigbang tạo ra thế giới. 
 Như vậy từ điểm khởi đầu tây ta đã tư duy ngược nhau hoàn toàn, bên rỗng bên siêu nén. Từ thái cực mới sinh lưỡng nghi tức âm dương. Hào đơn liền chỉ dương và đứt chỉ âm. 
Từ đó các tứ tượng ( 2 hào đơn), bát quái (3 hào đơn), trùng quái (6 hào đơn) được khai triển ra . Phép khai triển này giống như phép tính nhị phân 0,1 mà Leibniz tới tk17 mới phát minh ra. 64 quẻ kinh dịch ứng với từ 1 đến 63 trong nhị phân. Tuy nhiên không có bằng chứng nào chỉ ra kinh dịch được người TQ hiểu theo kiểu toán nhị phân này. 
 Từ nhị phân cả thế giới số được phương tây xây dựng và với phép diễn đạt âm dương tương tự, không có gì khó hiểu khi kinh dịch có thể diễn tả được mọi thứ. 
 Kinh dịch vốn không có diễn giải sau được nhiều thế hệ chú giải. Những người chú giải càng giỏi thì kinh dịch càng hay và hấp dẫn. (1 số người nổi tiếng chú giải như Văn vương, Khổng tử...) Tới đây ta thấy rằng khi có khung sườn tốt thì những chú giải, diễn tả sẽ hợp lý đầy đủ. 
 Ví dụ như truyện Kiều ở TQ với Thanh tâm tài nhân chỉ là tác phẩm tầm tầm bậc trung khi qua tay Nguyễn du thoát thai hoán cốt đã trở thành kiệt tác của dân tộc việt nam.
Bài học rút ra là làm việc gì hay viết về vấn đề gì cần tìm kiếm, chuẩn bị khung sườn giàn bài giàn ý cho tốt thì sẽ đầy đủ, hợp lý và hay hơn.

Thế giới phẳng của người TQ 
Với thái cực làm trung tâm thì tứ tượng chiếm đủ 4 góc đông tây nam bắc. Nhưng 4 phương thì mới đủ chớ chưa đầy vì vậy tượng thêm 1 hào nữa là 3 để thành quái diễn tả đầy đủ 8 hướng. Và vòng tròn tiếp tục mở rộng bằng cách gấp đôi quái lên là 6 hào xếp trên cùng 1 mặt phẳng ngày càng lớn. 
 Tới đây ta hiểu lí do người hoa nhận mình là trung tâm và tư duy của họ là tư duy trên 1 mặt phẳng. 
Các bạn để ý các bức họa Trung hoa mọi thứ sông núi, chân dung đều là 2D, hoàn toàn không thể hiện 3D hay chiều sâu, bóng sáng tối hay xa gần. 
Còn thêm lý do quái gồm 3 hào do người TQ thừa biết không thể nào chỉ tồn tại thuần khiết âm dương được mà phải có thêm lực thứ 3 để cân bằng với âm dương, ví dụ như thiên địa nhân, thuận nghịch trung dung, quân sư phụ... chả hạn...càng ra xa càng nhiều lực lượng tác động. 
Như vậy với nhị phân phương tây hiểu và phát triển thành chuỗi còn người TQ hiểu và mở rộng theo vòng tròn. 

Âm dương Ngũ hành và kinh dịch hiểu theo nghĩa gốc
Âm dương và quản trị Người xưa coi trọng âm dương ngũ hành. Vậy âm dương đóng vai trò gì trong quản trị. Thứ nhất định vai chủ khách, ai dương ai âm. Các bạn để ý đến qui luật phân phối 50:50 của phương đông, nghĩa là phía lính 50, phía sếp 50. 
Vua cũng như các ông chủ gia đình đều coi việc trong nhà đối nội là 50, cân bằng với việc bên ngoài đối ngoại là 50. Trong ngạch võ thì chức chỉ huy cấm quân bảo vệ vua ngang hàng với chức chỉ huy quân đội thông thường... Tóm lại âm dương ngũ hành là phương pháp tìm ra vị thế cân bằng và giữ gìn sự cân bằng
Phía bên kia Ngũ hành  Nói tới ngũ hành bây giờ là nói tới tương sinh, tương khắc...ứng dụng trong phong thủy bói toán là chính. 1 số người còn nhấn mạnh kim mộc thủy hỏa thổ là những trạng thái biểu đạt tính chất mức độ quan hệ chớ đừng nghĩ tới chúng như tên gọi. 
Có thật người xưa suy nghĩ không chính danh như vậy không? 
Ta có những dữ kiện sau: Vua luôn tọa chính bắc, quay mặt về hướng nam. Nhất thổ nhì mộc giờ coi là nghề nặng nhọc vất vả. Thủy hỏa đạo tặc là 4 nạn. 
 Vậy bát (8) quái mà lại chỉ có ngũ (5) hành thì được phân phối thế nào? Tới đây ta thấy kim nằm ở chính bắc có 2 quái, tả hữu thổ mộc mỗi hành cũng nắm 2 quái. Người xưa coi trọng thổ mộc vì là xã hội nông nghiệp, có đất có cây trồng cây gỗ là có tất cả. 
Nên luôn mở rộng thổ nếu có sức, và khai thác cây dựng nhà, trồng cây thu hoạch. 
Còn vua thì nắm kim loại, trước đồng sau sắt làm công cụ lao động, làm vũ khí. 
 Còn lại phải cẩn trọng đối phó thiên tai như lũ lụt, hỏa hoạn. 
 Bài toán quản trị rõ ràng kim loại, đất đai, mùa màng làm trọng với 2 quái, phòng chống thiên tai, lũ lụt hỏa hoạn là 1 quái. Xây bao giờ cũng phân bổ nguồn lực nhiều hơn chống. 
Như vậy ngũ hành thoạt tiên tính ứng dụng trong quản trị rất cao, trải qua hàng ngàn năm biến đổi thì lại dần phục vụ cho phong thủy bói toán.
Vd
Mao CT và ngũ hành 
 Mao CT rất thông tỏ về ngũ hành trong quản trị đất nước. 
 Nhất thổ: trước tiên chiếm tây tạng giành đất, đồng thời đây là đầu nguồn nước. Sử dụng Triều tiên, VN là vùng đệm để giữ đất. 
Nhì mộc, tăng sản lượng lương thực nhờ htx, cấp dưới báo cáo năng suất quá trời nên Mao CT an tâm luyện thép đại nhảy vọt và giữ chính quyền bằng đầu súng. 
Hỏa: đánh tại TT, VN Thủy: để HK thông ra biển, mơ làm đập tam hiệp. 
 Sau thất bại đại nhảy vọt thì đương nhiên dùng cả ngũ hành tạo thiên hạ đại loạn để giữ chắc quyền lực. 
Kim súng giữ ghế. Thổ tranh chấp Ấn độ, VN, TT để đối ngoại, mộc cứu đói, thủy hỏa là hồng vệ binh

Ngũ hành và VN 
 Ngũ hành là công cụ quản trị của vua xưa. Đã nói tới TQ thì không thể không nhắc đến VN. 
 Đầu tiên phân tích về thủy hỏa do lý do sau: 
VN xưa nhận mình là nước, đất nước chứ không phải là quốc gia. Phải luôn giữ vững độc lập. 
 Thủy: lũ lụt cả bắc trung nam. Giờ VN là nước hàng đầu chịu ảnh hưởng của nước biển dâng. Đbscl bị nặng, biển đông bị lấn và trước kia Pháp cũng từ biển vào. 
 Hướng tây nam sông cửu long bị chặn dòng, xưa quân Xiêm cũng xâm lấn. Thổ mộc: Làm khá tốt khâu giữ đất. Với cấu trúc vùng cao vùng thấp thì xưa người Trại lấn người Kinh nên sự văn minh bị hạn chế. 
 Nay với cơ cấu cây lương thực, cây công nghiệp, rừng tự nhiên so với địa hình rõ ràng không cân đối do áp lực dân số và lạm dụng khai thác đất. Kim: luôn ở vị thế thấp. Trước thì đi sau TQ, giờ thì sau các nước công nghiệp nên hậu quả là luôn phải dưới bóng đại quốc nào đó mà TQ là chủ yếu, ngắt quãng bởi Pháp Mỹ.
Có nhà đầu tư hỏi: 
 Thật ra luật CK ảnh hưởng đến những ai? Sao thấy giá nhảy nhót liên tục? 
Trả lời: 
vì bạn thông thuộc ngũ hành nên có thể minh họa như vầy: 
- Kim: Tổ chức kinh doanh chứng khoán như CTCK, SGDCK, TTLK... 
- Thổ: Công ty niêm yết trên thị trường 
- Mộc: Nhà đầu tư 
- Thủy: dòng tiền, lãi suất, tỉ giá... 
- Hỏa: Thao túng thị trường, giao dịch do có thông tin nội bộ... 
Thị trường nhiêu đó và luật CK dùng để cân bằng lợi ích của các đối tượng tham gia thị trường, đề phòng đạo tặc...
11.03.21
Miền tây Miền đất thấp làm gì trước biến đổi khí hậu. 
 Với nạn nước biển dâng, sông cửu long cạn thì miền tây đối đầu với thách thức chưa từng có. Hôm nay chúng ta thử dùng ngũ hành, 1 công cụ quản trị thời nông nghiệp xưa để phân tích xem sao. 
Thuyết ngũ hành coi trọng sự cân bằng giữa kim thổ mộc thủy hỏa theo tỉ lệ 2 2 2 1 1 tương ứng. 
 Thổ: đất phù sa giờ ven biển 1 số nơi bị nhiễm mặn, phù sa ít dần 
Mộc: chủ yếu trồng lúa, cây ăn trái, mía và rừng tràm đước 
 Thủy: nước biển dâng làm vùng nước lợ tăng, nước ngọt giảm kể cả nước ngầm 
 Hỏa: giảm vì rừng còn ít Kim: xưa là lưỡi cày, dụng cụ làm nông nay là công nghiệp, công nghệ phục vụ nông nghiệp, cơ sở hạ tầng đường sá bến cảng năng lượng...và chỉ ở mức 1 nên thế cân bằng bị phá vỡ, người dân di chuyển tới miền đông lao động kiếm sống ở khu công nghiệp. 
 Với tình hình này thì kinh tế biển sẽ phát triển, vùng nhiễm mặn gặp khó, vùng trồng lúa truyền thống chững lại. Vậy chuyển dịch kinh tế sẽ diễn ra theo 3 phân khúc chớ không thể dàn trải, cào bằng vì không thể đủ vốn và cưỡng lại được tự nhiên. 
 Vùng nhiễm mặn là trọng tâm: dân sẽ đi đâu, sống bằng gì? Trồng cây gì nuôi con gì lại thành câu hỏi mượt mà. 
 Vùng trồng lúa, cây ăn trái thì giống má, phân bón, nước sử dụng thế nào để đạt hiệu quả kinh tế và sạch, giữ được nguồn nước ngọt... Tất cả những cái đó lại phụ thuộc vào kim. Tức là phụ thuộc vào mức đầu tư cơ sở hạ tầng, nghiên cứu ứng dụng công nghệ nông lâm nghiệp phù hợp và xây dựng khu công nghiệp...mà những cái này ngoài việc đổ tiền đầu tư lại còn liên quan đến giáo dục đào tạo dạy nghề chuyển giao công nghệ...rồi FDI có vô vùng đất thấp hay VN phải tự làm. Tất cả đang đòi hỏi sự vượt lên chính mình nhất là ở cơ chế, động lực phát triển cho miền tây từng và đang nuôi sống cả nước.

Ứng dụng của kinh dịch trong phân tích và dự báo 6 
Giành cho sv và người làm phân tích 
 Lấy quái (3 hào) chồng lên quái ta được 64 quẻ kinh dịch. Quái dưới gọi là nội quái, trên là ngoại quái. 
 Từ 1-30 là quẻ tiên thiên nói về trời, từ 31-64 nói về đời sống. 
 Vậy tại sao lại lấy quái chồng lên quái. 
 Thứ nhất mọi việc luôn có đối nội và đối ngoại. Thứ hai thể hiện ý ngoài trời có trời. 
Vd như câu trăng LX tròn hơn trăng nước Mỹ do ở trong phe LX thì thấy trăng tròn nhưng nhìn qua trời khác, trời Mỹ thì trăng méo do bị khúc xạ thiên kiến. 
Với nội quái, ngoại quái mở ra các ứng dụng phân tích tình huống. 
Phương tây cũng như phương đông đều phân tích tình huống dựa trên 2 đối tượng này. 
 Như vậy nội quái, ngoại quái giống như phân tích SWOT, BCG. Nội quái là sức mạnh, điểm yếu. Ngoại quái là cơ hội và nguy cơ. Còn BCG thì ngoại quái là thị trường, nội quái là mức lợi nhuận chả hạn, cho ra bò sữa, ngôi sao...hay (?), chó. Như vậy với mục đích của người phân tích mà nội quái, ngoại quái có thể là vi mô và vĩ mô, công ty và thị trường, trong nhà và xã hội...(nội dung trong quái có thể là thiên địa nhân, quá khứ hiện tại tương lai hay xu hướng kinh tế xã hội nhân lực cơ sở vật chất hiện tại...tùy theo bài toán mà người phân tích quan tâm). 
 Số tiên thiên ít hơn hậu thiên chứng tỏ việc trong nhà, nội bộ luôn phức tạp hơn đối ngoại. 
 Sau khi phân tích ta dựng được quẻ. Việc bây giờ chỉ còn là tra xem tiền nhân luận quẻ ấy như thế nào và phiên ra ngôn ngữ chuyên môn và xem nó có hợp lý hay không. 
 Việc của nhà phân tích là như vậy chớ không như nhà bói toán xóc lọ chọn quẻ rồi xem thánh phán. Bạn nào nắm được nguyên lý này sẽ thấy chứng khoán hành vi phân tích cũng tương tự.
Kết luận 
Như vậy, dưới góc nhìn quản trị ngày nay chúng ta đã chứng kiến quá trình biến đổi thoái hóa của kinh dịch ngũ hành từ công cụ quản trị của quân vương trở thành phương tiện giải thích phong thủy bói toán. 
 Với kinh dịch, ta thấy sự tương đồng trong kỹ thuật phân tích dự báo của người xưa với những mô hình phổ biến ngày nay như SWOT, BCG... 
Với ngũ hành ta thấy tầm quan trọng của kim loại, ngày nay là công nghệ, công nghiệp cần nắm vững cũng như thổ đất cần giữ gìn, phân loại, bảo vệ rồi mộc cây cối cần giữ rừng, trồng rừng, rồi cơ cấu lương thực, vật nuôi hài hòa. Thủy hỏa đạo tặc cần phòng chống khai thác ra sao... 
Dĩ nhiên là bây giờ quản trị đa dạng phức tạp hơn xưa nhiều. Nhưng nếu ta nắm được cốt lõi của những nguyên lý quản trị này thì có lẽ sẽ quản lý tốt hơn, bớt ngông cuồng và tham lam như đã từng.
1 số giải thích 
Vì sao càn khôn lại là đất và sắt? 
Thời nhà Chu đưa nông nghiệp vào văn minh nhờ khám phá ra sắt làm công cụ lao động. Việc tìm ra sắt tương truyền do thiên thạch. 
 Thời đại đồ sắt làm chất lượng cuộc sống nhảy vọt, đất đai mở rộng no ấm. Từ no ấm mới có thời gian bình tâm tư duy về triết học. 
Họ đã phát hiện ra luật âm dương coi trời đất càn khôn phối hợp với nhau sinh ra vạn vật. Bát quái cũng nhằm giải thích tứ thời bát tiết và sự tương tác lẫn nhau qua ngũ hành. 
 Để đánh dấu sự quan trọng của sắt cũng như nắm chắc lợi khí này mà các cụ đã đặt kim ở cung càn tức trời để phối với cung khôn thổ đất. 
 Với lưỡi cày sắt và đất đai thì cuộc sống thịnh vượng, từ thịnh vượng thì vạn vật sinh sôi nảy nở.

Kinh Dịch bắt đầu bằng Thái cực, hay còn gọi là vô cực, 1 điểm khởi đầu trống rỗng nên có thể chứa, tạo ra vạn vật. Khoa học ngày nay có khái niệm tương đương là lỗ đen nhưng lỗ đen chứa siêu năng lượng, vật chất siêu nén khi bigbang tạo ra thế giới. 
Như vậy từ điểm khởi đầu tây ta đã tư duy ngược nhau hoàn toàn, bên rỗng bên siêu nén. Khái niệm siêu nén rồi bigbang của Tây có lẽ phát nguồn từ việc quan sát, thụ đắc các vụ nổ. Từ thuốc nổ thông thường, động cơ đốt trong tới nổ bom hạt nhân giúp phương Tây vượt lên trước. Bigbang xong mà các thiên hà, hệ mặt trời, các ngôi sao vẫn giữ được trật tự khoảng cách của chúng với nhau nghe có vẻ kỳ lạ phản ánh cấu trúc vững bền của nguyên tử theo khoa học Tây. 
Còn phương Đông ngược lại coi đó là điểm rỗng, có lẽ do các cụ nhìn lên trời sao thấy trời trống rỗng mà chứa vô vàn vì sao, định kỳ lại đổ mưa sấm chớp mà coi cái không mới là điểm khởi đầu chăng và chẳng phải ngẫu nhiên mà người Ấn độ đã phát minh ra số 0. Từ đó nhiều khái niệm phát xuất như trong nội công thì khí theo cột sống như ống rỗng đổ vô tụ đan điền nên đan điền rỗng thì nội công cao, thiền tập thì trí óc rỗng để đạt cảnh giới. ..rồi đạo Phật thì tánh không là 1 cánh cửa cơ bản, thậm chí có phái còn vô ngôn tức không nói chỉ thể hiện ý bằng hình thể... Quên mất. Còn nữa là giờ Mỹ tỉ lệ tiết kiệm có 2% và TQ là 50%, có lẽ vai trò siêu nén và rỗng đã đảo ngược giữa TQ và Mỹ.

Người VN âm tính 
Người TQ tiếp nhận cuốn Người TQ xấu xí của Bá dương với đủ cung bậc cảm xúc hỉ nộ ái ố. Tóm lại là sách rất thành công. Nhiều người việt tài giỏi cũng viết về người VN xấu xí nhưng chưa đầy đủ hệ thống và người đọc tỏ ra rất thờ ơ, miệt thị. Theo bạn do đâu? Thực ra các cụ đã nói rất rõ về cái này. Càn chỉ dương, trời, đàn ông mà toàn càn quét, càn rỡ, càn quấy. Còn Khôn chỉ âm, đất, nữ lại mang nghĩa khôn ngoan, khôn khéo, khôn lanh, khôn lỏi...vậy là biết các cụ trọng âm ngán dương cương rồi

2. Khác biệt Đông Tây
Nói hay không nói
Người Tây thích hội thoại, khoái đặt câu hỏi như Socrates hỏi nhiều đến nỗi các quan phát ghét, bắt uống thuốc độc tự tử. Nhưng nhờ thế mà học trò ông, nhờ ghi chép lại mà tư duy người Âu ngày càng củng cố.
Theo Hải Hoành Nguyễn  Trong bài The Language Animal, triết gia Charles Taylor nói Loài người là Động vật ngôn ngữ . Triết gia Martin Heidegger nói ngôn ngữ là ngôi nhà của sự sống (Language is the house of being), loài người sống trong ngôn ngữ. Có thể nói, chừng nào bộ óc ta còn hoạt động thì ta còn dùng ngôn ngữ. Heidegger cho rằng ngôn ngữ không chỉ là công cụ tư duy, giao tiếp, thông tin mà nó đích thực là sự sống, là nơi cư ngụ của tồn tại (tức sự sống). Loài người biết đến toán học, thiên văn... từ hàng ngàn năm trước, nhưng mãi đến thế kỷ XIX-XX mới biết đến ngôn ngữ học.
Ngôn ngữ làm cho con người có sức mạnh vượt trội, hơn bất cứ mãnh thú nào. Nhờ có ngôn ngữ, con người biết tập họp sức mạnh cơ bắp và trí tuệ của bầy đàn, tạo ra sức mạnh chưa từng thấy.

Còn phương Đông thì im lặng là vàng, rồi người khôn nói lắm cũng nhàm…tức là theo hướng ngược lại khuyến khích nói ít làm nhiều, làm gương bằng hành động. Bồ đề đạt ma còn 10 năm quay mặt vào vách không nói 1 lời và có những dòng tu chuyên về tu tập nơi thâm sơn cùng cốc không có bóng người qua lại, không nói năng chi nhằm tăng tiến về Phật pháp qua thiền.
Vậy là 2 phương Đông Tây có vẻ ngược nhau nhỉ. Kể ra cũng có lý vì nếu để nói nhiều thì lại ngay lập tức trở thành nói như rồng leo, làm như mèo mửa.
Nhưng mọi người nhớ rằng "Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, Ngài đã từng dạy rằng: Từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến đêm thể nghiệm hoàn toàn Niết-bàn, trong khoảng thời gian đó Như Lai không hề nói bất cứ một chữ nào, cũng không bao giờ thuyết giảng; Vì không thuyết giảng chính là sự thuyết giảng của đức Phật.” Và Ngài hoàn toàn không nói gì trong 49 năm. Giác ngộ rồi thì mới im lặng. 






Tổng hợp hay phân tích 
Theo cấu tạo tự nhiên mà người tây giỏi về phân tích chi tiết còn người Á giỏi về khái quát tổng thể. Có nhiều người nói VN muốn phát triển thì người VN cần hình thành được tính làm việc chu đáo, tỉ mỉ chớ đừng qua loa, đại khái cẩu thả như bây giờ.
Nhìn sang các nước xung quanh như TQ, Nhật, HQ, Đài loan, Sing, Thái…thì họ đều có tác phong làm việc kiểu công nghiệp hết mà những nước này xưa là đồng văn (hóa) đồng chủng (tộc) với ta. Vậy thì vấn đề không phải do gene hay do văn hóa. Vậy là vì cái gì?
Máy bay khi vượt qua bức tường âm thanh đều gây tiếng nổ lớn. Vậy các nước quanh VN đã vượt qua được rào cản và công nghiệp hóa thành công. Giờ là tới lượt VN vượt qua bức tường âm thanh đó, trong lịch sử thì VN chưa bao giờ CNH thành công. Cái này giải thích cho lý do vì sao Nhật sau thế chiến 2 hoang tàn đổ nát mà chỉ sau chừng 20 năm lại trở lại là cường quốc. Cơ sở vật chất tan nát nhưng vốn tri thức, lối sống công nghiệp, kỹ năng của con người thì vẫn còn nguyên. Đó chính là điểm khác biệt với VN.

Tập quyền và tản quyền
Phong kiến châu Âu là PK lãnh chúa, tức là họ là chủ của miếng đất được vua phong, có quyền có gia nhân, lực lượng quân đội riêng. Điều này làm các lãnh chúa có vai trò, tư cách tương đối độc lập so với vua. Cho nên không lạ là lối quản trị của họ là phân quyền, các lãnh chúa muốn mạnh lên thì phải thu hút người tài giỏi về làm cho mình tức là có cạnh tranh lẫn nhau.
PK TQ từ thời Tần thủy hoàng, VN từ thời Đinh bộ lĩnh trở thành PK tập quyền tức là đất nước được chia thành quận huyện và người được đất phong không phải là lãnh chúa toàn quyền trên vùng đất họ được phong mà họ chỉ có quyền thu thuế trên đất ấy và có quyền quản lý số đinh nhưng không được lập quân đội riêng.
Điều này làm lớp quí tộc TQ, VN khác châu Âu là có quyền lực kém hơn và sau mỗi đời lại sụt mất 1 cấp nên mới có câu không ai giàu 3 họ, không ai khó 3 đời. Như vậy vua VN không dựa vào tầng lớp quí tộc làm rường cột mà họ dựa vào tầng lớp sĩ phu, tức cánh học trò đi thi, đỗ thì được bổ làm quan, trượt thì làm lại hoặc làm thầy đồ.
Như vậy vua VN, TQ có phong cách tập quyền hơn hẳn và Nho giáo ban quyền cho quân sư phụ ở mỗi lãnh địa của mình thì người đó là tiểu vương. Đó là nguồn gốc chế độ 1 thủ trưởng hiện nay.

Trí thức và sĩ phu
Như vậy ở châu Âu thì trí thức xuất hiện phục vụ cho vua và tầng lớp quí tộc còn ở VN, TQ thì trí thức gắn chặt với bộ máy thư lại gọi là tầng lớp sĩ phu. Vì gắn chặt như thế nên họ nặng về hành chính mà kém tính sáng tạo và ý thức ăn cây nào rào cây ấy rất cao, triều đình và sĩ phu là 1 khối mà. Trong 3 nước Nhật, TQ, VN thì sĩ phu Nhật xem ra kém ngoan cường nhất, biết thua thì chịu chuyển hướng học Tây để vượt Tây còn TQ với VN thì ngoan cường lắm, biết thua vẫn cương quyết chống lại tới cùng đặc biệt văn thân VN, vua ra chiếu hòa họ kháng chỉ luôn, đòi bình tây tả đạo nhưng Tây mạnh quá có đánh lại đâu rút cục tả đạo là chính.
Lý do sĩ phu Nhật kém ngoan cường nhất vì họ phục vụ các lãnh chúa giống phong kiến châu âu. TQ kém VN vì sau khởi nghĩa Thái bình thiên quốc thì tình trạng lãnh chúa cát cứ cũng nổi lên mà nhà Thanh phải chấp nhận, còn văn thân VN thì thuần khiết nên bảo hoàng hơn vua. 

Duy vật không bay bổng 
Phương Đông có ngũ hành: sắt, gỗ, nước, lửa, đất. Thích số 5: ngũ thường, ngũ long...tuy nhiên khi áp dụng còn 4: tứ thời, tứ nghề, tứ phương.
Phương Tây có bốn nguyên tố: nước, lửa, khí, đất. Thích số 4: bộ tứ. Khi áp dụng còn 3: tam quyền Đông Tây có 03 cái giống nhau: nước, lửa, đất. Tây thấy không khí, ta thấy gỗ, sắt. 
Như vậy ta thấy thì mới tin, nặng về duy vật hơn. Tôn giáo cứ phải là đa thần chớ độc thần thì cảm thấy khó hiểu. Thế thì trùng với vua à.

1. Lịch sử tên gọi Hà tĩnh
Trước đây, Hà Tĩnh cùng với Nghệ An là một miền đất có cùng tên chung là Hoan Châu (trước thời Nhà Lý), Nghệ An châu (thời Lý, Trần), xứ Nghệ (năm 1490, đời vua Lê Thánh Tông), rồi trấn Nghệ An. Năm 1831, vua Minh Mạng chia trấn Nghệ An thành hai tỉnh: Nghệ An (bắc sông Lam) và Hà Tĩnh (nam sông Lam).
Vậy là tên Hà tĩnh có sau này, do vua Minh mạng đặt. Câu hỏi đặt ra là vì sao vua lại đặt tên là Hà tĩnh vì VN đã có nhiều tỉnh bắt đầu bằng Hà.
Nhà Nguyễn đóng đô ở Huế nhưng vùng đất đế vương bền vững nhất VN chính là Thăng long. Từ khi Cao biền sang đã xây thành Đại la, rồi đến Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa lư ra và ngài đặt tên là Thăng long, 1 quyết định đúng hàng ngàn năm. Thăng long rồng bay chính là ổ của rồng, xung quanh được các sông, Hà bao bọc. Từ hà tây, Hà đông, Hà nam, Hà bắc 4 phương che chắn, tạo đà cho tổ rồng (xem thêm Thăng long tứ hộ vệ).
Vậy phải làm sao để hãm, chặn sự vượng địa đế vương của Thăng long lại để Huế nổi lên và vững vàng thì vua Minh mệnh đã làm mấy việc. Thứ nhứt đổi tên Thăng long thành Hà nội, chỉ còn là vùng đất bên trong được bao bởi tứ Hà và Hà nội nói theo kiểu bắc chỉ còn là hội. Hội hè đình đám thôi chớ không phải kinh đô nữa.
Vua vẫn chưa an tâm nên việc thứ 2 là tách Nghệ ra thành Nghệ an và Hà tĩnh. Lấy 1 hà nữa chặn ảnh hưởng của vùng đất TL. Hà tới đây là tĩnh, yên tĩnh, tĩnh thân không ảnh hưởng được chi tới Huế nữa.
Từ ngày HN trở lại làm kinh đô thì người Hà tĩnh làm quan ngày càng nhiều. Đó có phải 1 phần do sự trấn yểm của vua Minh mạng không?

Thứ Năm, 1 tháng 10, 2020

Bùa yểm của Cao vương


Sáng nay mới dậy đã nghe cô em điện thoại rủ ăn sáng. Lạ quá vì nhà cổ xa, ngược đường. Em ở quán ngay gần nhà anh nè. Sao em sang ăn sáng tận đây? Quán này sếp em mới mở nên tới ăn ủng hộ anh ạ. Em cứ vẽ, sếp có ở đấy đâu mà biết. Cả cơ quan tới ăn rồi, mình không tới thì kỳ anh,

Lấy bụng tiểu nhân đo lòng quân tử 
Nghe Trump dính Covid liền nghĩ rằng giả. Không nghĩ rằng giả mà lộ ra là hơn cả tử hình, mất hết. Chê người nói đạo đức chỉ nói hay chớ làm như lờ mà không so với thằng vừa nói như lờ vừa làm như lợn

1. Bùa yểm của Cao vương
Cao vương hay còn gọi là Cao biền xưa nổi tiếng về tài phong thủy, trấn yểm đã thành giai thoại như chuyện xây thành Đại la gặp thần Long đỗ bao trấn yểm thất bại nhưng thần thổ địa Long đỗ ưng cho Cao biền xây thành Đại la vì Cao biền có năng lực mà thế đất có núi Nùng sông Tô lịch có thể phát đế vượng bền vững rồi chuyện CB cưỡi lên diều bay khắp nơi nhận huyệt mạch nước Nam bị bắn rơi ở Ninh bình giờ vẫn còn dấu tích là núi cánh diều…
Tương truyền cụ Tả ao đã cao tay ấn hơn CB đã phá giải và gài thế lại nên CB sau phải về TQ và bị vua giết chết, đáng đời. Nhưng có 1 thứ CB yểm mà dân ta không biết cứ cười CB non tay ấn là chuyện CB nuôi âm binh bằng đậu nành trong chum rồi dặn bà hàng nước đúng 100 ngày hẵng mở. Tất nhiên phụ nữ thì tò mò, nhịn không nổi thấy các âm binh đấy đã thành hình nhưng còn non bấy nên lẩy bẩy đi được vài bước rồi gục ngã.
Số là CB sau khi thua thần Long đỗ thì thù dai, âm thầm tính mưu kế hại lại. Quân tử tàu 10 năm báo thù chưa muộn mà, ai quên thì ráng chịu. Ông ta đi khắp núi sông thì thấy về cơ bản nước nam là 1 xứ còn non: đồng bằng sông Cái non mới thành hình, núi thì chất đá cũng non mềm, không cứng. Từ thế phong thủy vậy thì người vùng này cũng non nớt, nông nổi, không có tầm nhìn xa, hay dựa dẫm vô người khác và hay thay đổi phản thùng…
Vậy là ổng lập kế nuôi bùa yểm bằng đậu nành. Đỗ chính là đậu, khi bà hàng nước mở nắp chum ra thì bùa yểm đã bay ra khắp nơi, lá bùa chính bay tới xâm nhập thần Long đỗ qua đằng mũi vì chum này chính là chum tương mà, CB đã đánh đổi công nghệ làm nước tương cho dân nam để yểm bùa thu phục. Từ đó dân bắt đầu ăn nước tương, đã ăn nước tương quen thì chê mùi mắm cá thúi như Cao bá quát chê con thuyền Nghệ an chở mắm nặng mùi.
Cứ ngày này qua ngày khác bùa yểm này phát huy tột độ những thứ non nớt của người nam và Tản đà đã nhận ra điều này:
Dân 20 triệu ai người lớn
Nước 4 ngàn năm vẫn trẻ con
Để khái quát hóa sự non nớt cả về thể lực, trí óc, tâm tính của người Việt. Đứng trước tình thế khó khăn thường lựa chọn sai lầm do non nớt, hấp tấp bức ăn nuốt lưỡi và sức bền, sức tập trung không cao.
Vậy nên đừng ngạc nhiên là trí thức VN thường non về kiến thức, bộp chộp trong hành động và giáo điều trong niềm tin vì họ bị Cao vương yểm bùa lẩy bẩy.

2. Cái lý của người Mèo
Truyện Thôi oanh oanh được người TQ xem là kinh điển trong việc rèn luyện sự kiềm chế của người quân tử.
Theo Khổng nho thì người quân tử là tinh hoa, chỉ đứng dưới vua, giúp vua trị quốc.
Trương quân thụy là 1 chàng trai học giỏi có hi vọng đỗ trạng nguyên lên đường lai kinh ứng thí. Xưa thì cứ học giỏi là ok chớ không như bây giờ học giỏi chả là gì, phải có tiền hoặc con quan kiểu không giàu thì phải đẹp trai, không thông kinh sử phải dài AK như sau này.
Trên đường đi, chàng trọ ở nhà nàng Thôi oanh oanh và đã gọi người đánh tan bọn cướp, giải cứu được nhà mẹ con nàng Thôi.
Thôi oanh oanh sang cảm ơn và rất nhanh chóng 2 người yêu nhau rồi ăn cơm trước kẻng, dĩ nhiên chàng Trương thề thốt sẽ lấy nàng làm vợ.
Trương quân thụy thi đỗ trạng nguyên, làm quan và chàng lờ lớ lơ luôn Thôi oanh oanh.
Với cái kết này có thể rút ra mấy kết luận sau:
Các bà mẹ, phụ nữ lấy cái đó làm tấm gương răn dạy con gái không được cho con trai xơi trước, no xôi chán chè là nó phắn. Nó như gậy thằng mù chọc lung tung còn gái thì thiệt đủ đường.
Người hiện đại thì bảo Trương quân thụy là thằng xỏ lá, lẻo mép, đĩ đực do cứu mẹ con nhà Oanh là hắn nhờ võ quan cảnh sát cứu chớ văn nhân trói gà không chặt có đánh đấm chi được, rồi dài lưng tốn vải quên ngay người cũ khi thấy đám khác ngon hơn…
Nhưng lý của quân tử tàu thì như vầy:
Chàng Trương đã mất kiểm soát khi ăn cơm trước kẻng, giờ chàng chối bỏ Oanh là thể hiện sự kiềm chế sắt đá của người quân tử và chàng đã quên được nàng Oanh thật vậy là chàng đã kiềm chế thành công.
Còn nàng Oanh không giận mà nàng nói “Quyến rũ ai đó rồi rời bỏ nàng ta là điều hoàn toàn tự nhiên, và sẽ thật cực đoan khi ta phẫn nộ vì nó”.
Đấy cái lý của người mèo là như thế. Giờ ta mới quay ngược lại suy nghĩ tại sao Khổng tử lại nhấn mạnh tới sự kiềm chế sắt đá như vậy? Coi năng lực kiềm chế, đè nén ý thích, ham muốn, dục vọng là 1 năng lực được ưu tiên.
Có lẽ ông Khổng tử nhận ra nòi giống mình có bản năng tham lam vô độ từ việc sinh sản, tiền bạc, đất đai, danh vọng….từ lịch sử tranh đoạt, chém giết, mở rộng lãnh thổ, quyền bính…và Oanh oanh truyện là 1 câu chuyện chứng minh.
Khi trước Mao CT 1 rìu chặt đứt đầu dây mối nhợ tự kiềm chế khiểu Khổng giáo kết quả thiên hạ đại loạn. Giờ TQ khôi phục Khổng giáo nhưng lại thả con lợn vật chất trong lòng ra đuổi cũng thật trần trùi trụi trong tranh đoạt.


3. Mâu thuẫn luận của các cụ
Xưa các cụ đã nhận thức được biện chứng pháp qua việc giải quyết mẫu thuẫn chớ không phải như ngày nay lầm tưởng.
Thứ nhứt là truyện Sơn tinh, Thủy tinh giành gái đánh nhau liên miên và người hiện đại coi như đó là công cuộc trị thủy, là người vùng cao đấu với người vùng thấp nhưng câu chuyện còn dẫn dắt ta tới 1 câu chuyện về địa linh nhân kiệt trong đó cặp núi sông không đánh lộn nhau mà lại tạo thành thế đất phát tích, phát vương, trở thành nơi đô hội, nơi tụ tập người tài…

Theo GS Lê văn lan:
“Như vậy, từ xa xưa cặp sông – núi trong văn hóa người Việt chính là một cặp Âm – Dương, cha – mẹ. Trong tâm thức Việt, cặp đôi này có chức năng sinh sản, duy trì sự sống; nơi nào có cặp đôi sông – núi nơi đó được xem là vùng đất địa linh nhân kiệt.
Nhìn vào văn hoá Việt, có rất nhiều cặp biểu tượng sông núi nổi tiếng như vậy.
Phía tây bắc có núi Mường Hung soi vào dòng sông Mã. Khởi nguồn cho nước Văn Lang có núi Tản sông Đà. Về Ninh Bình thì cặp biểu tượng sông núi mà người dân hết sức tự hào và gìn giữ là sông Vân núi Thúy. Nam Định thì được gọi là vùng đất của non Côi sông Vị. Vùng đất xứ Nghệ là núi Hồng sông Lam. Xứ Huế thì không ai mà không biết đến sông Hương núi Ngự. Vào đến Quảng Ngãi thì cặp biểu tượng là núi Ấn sông Trà.
Thế thì tìm hiểu Hà Nội, Thăng Long, Đông Đô, hay Đại La… cần phải biết rõ về cặp biểu tưởng núi Nùng sông Tô.
Nằm ở vị trí trung tâm của Long Đỗ hương từ thời tiền sử, có một ngọn núi thiêng, tên gọi dân gian là núi Nùng. Giờ đây chúng ta có thể xác định được núi Nùng tiền sử nằm ở đâu giữa Hà Nội hiện đại này?
Nhiều người đi qua đường Hoàng Hoa Thám, chỗ Bách Thảo, thường chỉ tay vào gò đất cao cao ở đó mà giới thiệu như một sự hiểu biết đáng tự hào về lịch sử Hà Nội:
– “Biết núi Nùng nổi tiếng ở đâu không? Kia kìa!”
Đó là một sai lầm chết người.
Ngọn núi ở trong vườn Bách Thảo có tên ghi vào các văn tự cổ, bản đồ cổ là Sư Sơn. Vì chữ Hán không có âm nào để phiên âm tên gốc của ngọn núi là Sưa, nên người ta chép đại chữ Sư cho gần âm. Từ đó, quen dần đọc thành Sư Sơn.
Tên gốc của nó là núi Sưa. Cách gọi tên núi này giống cách người xưa gọi một ngọn đồi nổi tiếng ở Bắc Ninh là Lim, chỉ vì ở đó được trồng nhiều cây lim. Núi Sưa cũng vậy. Chỗ này vốn có rất nhiều cây Sưa quý mà được gọi là núi Sưa, phiên sang chữ Hán là Sư Sơn. Ta không bao giờ được phép nhầm lẫn núi Sưa (Sư Sơn) với núi Nùng thật sự.
Bởi núi Nùng là một ngọn núi thiêng, nó nằm trung tâm hoàng thành Thăng Long, ngày nay còn được gọi là núi Điện Kính Thiên. Và Điện Kính Thiên được xây trên đất gốc của Long Đỗ Hương – gò đất cổ 2.000 năm.
Truyền thuyết rồi người đời sau cũng đã chép vào những bộ như Việt Điện U Linh, Lĩnh Nam chích quái… đều nói từ núi Nùng này ông Tô Lịch đã phát hiện ra một huyệt đạo có thể thông xuống tận âm ty địa phủ. Trên đỉnh của núi thì mạch của nó có thể thông lên đến tận trời xanh. Phát hiện này của ông Tô Lịch đã khiến Núi Nùng ở Long Đỗ Hương chẳng những là trung tâm, là cao điểm, là tiêu điểm, là tụ điểm mà còn là linh điểm.
Cũng chính vì thế mà suốt 1.000 năm Bắc thuộc, các thời kỳ từ Nam Việt – Lưỡng Hán cho đến Tùy Đường cai trị Giao Chỉ đều ưu tiên lựa chọn núi Nùng để xây trung tâm hành chính, và dựa vào địa thế của sông Tô mà được bảo vệ và phát triển. Như vậy núi Nùng sông Tô là một cặp biểu tượng đã xuất hiện từ TCN chứ không phải đến thời Thăng Long mới có.”
Sự sùng bái núi sông lên tới mức người ta cho rằng dù núi không cao có tiên là thành danh, dù sông không sâu, có rồng thì thành thiêng dù núi lè tè, sông bồi nhỏ như cái lạch.
Vậy không cần tỏ duy vật cũng vẫn vận dụng được mâu thuẫn luận ha.

4. Thăng long tứ hộ vệ
Thời tên Thăng long thì TL được Hà nam, Hà bắc, Hà đông, Hà tây quây xung quanh bảo vệ. Rồng ưa nước nên 4 phía đều có hà là sông để tạo chỗ cho rồng bay lên, ta có thể hình dung ổ rồng nằm trong vùng nước lớn (Ngoài ra để chống mặt bắc là mặt trọng yếu vững hơn còn độn thêm Hà giang bên trên).
Tới khi Pháp sang thì người Pháp nhìn thấy sông Cái đỏ ngầu phù sa bèn đặt tên là sông Hồng. Trước đó vua Minh mạng để phá thế đế vương của vùng đất rồng đã đổi tên cho thành phố là Hà nội, thành phố trong sông. Họ không biết rằng, chừng 80 năm sau thì việc họ đặt tên cho dòng sông đã trở thành tiền định. Nơi đây nhà nước hồng CS đầu tiên ở Đông nam Á đã được thành lập.
Người Pháp có vẻ thích đặt tên thành phố dựa vào vị trí của nó so với dòng sông. Sài gòn là gọi chệch bờ tây của tiếng tàu mà ra (theo Trương Thái Du). Đồ rằng khi Pháp qua, hỏi đúng ngay 1 chú 3 tàu đây là đâu, ông kia trả lời tây cống (Tây Cống (giản thể: 西贡区; phồn thể: 西貢區; bính âm: Xīgòng Qū; Việt bính: sai1 gung3 keoi1; tiếng Anh: Sai Kung). Ông Pháp nghe và phiên lơ lớ thành Sài gòn, giống như tới Đò lường Nghệ an hỏi đây là đâu thì phiên thành Đô lương phố của người lương thiện, ngược hẳn nghĩa ha


5. Lãnh đạo TQ khoái số 4
Số 4 phát sinh từ âm dương thể hiện trọn vẹn 4 góc, 1 chu kỳ nên được người TQ cổ rất quan tâm và đưa vào trong hệ thống tư tưởng, văn học nghệ thuật của mình từ sinh lão bệnh tử, 4 mùa bát tiết đến sỹ nông công thương, tranh tứ bình, tứ linh tứ quí…
Lãnh đạo TQ hiện đại cũng rứa.
- 1966 cách mạng văn hoá: đập tan 4 hủ lậu gồm tư tưởng, phong tục, văn hoá, thói quen (phá sạch nhỉ)
- 1976 bè lũ 4 tên
- 1978 cải cách 4 hiện đại (mà xưa ta chê là hại tứ dân) giờ mới thấy quá lợi hại
- 2015 xã hội 4 toàn gồm thịnh vượng, cải tổ, pháp quyền, kỷ cương.
Nhưng dân thì lại kiêng số 4 vì phát âm giống chữ tử là chết, mê tín sàm xí ha.
Còn người Việt?
Quan thì lại cuồng số 4: Tứ trụ, sỹ binh chạy mỏi chân vì số 4: 4 sao, viên chức nhà nước thì mê mẩn số 4 để hốt bạc: bộ tứ,...nghệ nhân thì kiếm tiền nhờ số 4: tranh tứ quí,, thày bói làm giầu nhờ số 4: tứ nữ bất bần, dân thì khoái 4 đổ tường, tứ khoái, các bà thì đánh tứ sắc… 
Với phụ nữ cần có tứ đức, người có tứ hồng, tránh sanh tứ nữ, né ở tứ đại đồng đường và chịu chơi tứ sắc

6. Người kể truyện Kim dung
Thời xưa người kể truyện đi khắp nơi, kể và sống bằng nghề này vì người biết chữ thì ít, sách chép tay nên rất hiếm. Tam quốc diễn nghĩa được La quán trung biên soạn cũng góp nhặt những câu chuyện từ những người kể truyện này.
Những tưởng sau này người kể truyện tuyệt tích nhưng sau này ở miền bắc thời sau 75 lại xuất hiện những người kể truyện Kim dung, Quỳnh Dao…
Hàng xóm tôi ngày ấy có nhà chồng người Sóc trăng, vợ miền bắc có 1 đàn con đặt tên Quang Ánh Sáng Hoàng Hậu. Sau 75 cả nhà về nam, tưởng đi luôn nhưng thấy chừng 1 năm lại đi ra. Khi ra mang theo 1 bao tải truyện Kim dung, phải ai thân thiết lắm mới được cho mượn. Vậy là tối tối lũ trẻ con lại ngồi trên đường nhựa nghe thằng Ánh kể truyện Kim dung. Thì cũng Cô gái Đồ long, Hiệp khách hành, Thiên long bát bộ…nhưng qua lời kể của nó thật hấp dẫn, thằng này sau mà làm tuyên huấn chắc thành công vang dội. Nghe đi nghe lại mãi rồi cũng nhòn nhòn truyện, thằng Ánh bắt đầu bịa như thiệt những đầu Ngô mình Sở. Mãi sau này mới biết nó kể thêm đầu thêm đuôi, râu ông nọ cắm cằm bà kia nhưng vẫn là những kỷ niệm đêm hè xuyên không thời gian từ thời La quán trung tới thời bao cấp. Không lâu sau đổi mới thì món kể truyện ăn bánh rán, thuốc là cũng tuyệt tích vì giờ sách báo phim ảnh ê hề và rồi nhà nó lại về Sóc trăng, không biết sau Ánh làm nghề gì, có làm cán bộ tuyên huấn không?