Căn bệnh của giới chuyên gia là luôn tỏ ra cao siêu, bí hiểm từ những việc đơn giản khiến người ngoài ngành khó hiểu.
Tuy nhiên có những điều đơn giản thì chuyên gia lại quên vì nó thường quá.
Đơn cử như việc phân loại cổ phiếu công ty, sơ sơ có mấy loại cổ phiếu tăng trưởng, thu nhập, phòng vệ, thượng hạng, chu kỳ và thời vụ.
Phân chia như vậy là để dành cho các nhà đầu tư. Tùy theo mục đích đầu tư của mình mà họ chọn lựa loại cổ phiếu hoặc một danh mục thích hợp.
Câu hỏi tiếp theo là ai thực hiện việc phân chia này. Tất nhiên là công ty chứng khoán.
Công ty chứng khoán có thể tự làm được chuyện này dựa vào ngành hàng của loại cổ phiếu, thống kê lịch sử giá cổ phiếu...nhưng để được thừa nhận rộng rãi cần có sự tham gia của ủy ban chứng khoán và sở giao dịch chứng khoán.
Nếu UBCK và SGDCK không cung cấp định nghĩa, không phân ngành chứng khoán phù hợp, không tiến hành thống kê đầy đủ, không phân bảng giao dịch rõ ràng thì CTCK và nhà đầu tư và ngay cả công ty niêm yết cũng gian nan trong việc nhận dạng cổ phiếu nào là cổ phiếu nào trên quan điểm thu nhập và trạng thái công ty phát hành.
Quay lại nói theo kiểu chuyên gia thì TTCK phát triển thế nào có thể đọc qua thống kê về các loại cổ phiếu trên đang niêm yết trên thị trường. Những loại cổ phiếu này có hình thành được thành chuỗi giá trị lành mạnh hay không, tỷ trọng của từng loại cổ phiếu như thế nào.
Nếu thống kê chỉ ra các cổ phiếu khó giữ hạng của mình, nhảy búa xua từ loại này sang loại khác thì đó là cả một vấn đề.
Nhà đầu tư khi mua thì nó là bluechip mà sau khoảng 1 năm lại trở thành junk thì mệt. Mơ ngỗng hóa thiên nga mà thực tế lại mua thiên nga sau hóa vịt thì thật nản.
Vậy câu chuyện ở đây là hãy tiến hành phân ngành, thống kê để phân loại ngay cổ phiếu trên thị trường đang là tăng trưởng, thu nhập, phòng vệ, thượng hạng, chu kỳ và thời vụ cho nhà đầu tư tỏ tường.
Ngoài ra nhà đầu tư hiểu rất đơn giản thế này:
Thị trường hoạt động tốt nhất khi lạm phát (CPI) và lãi suất đang ở mức cao và di chuyển xuống thấp hơn.
Thật không may, thị trường cổ phiếu có xu hướng gặp rắc rối khi lạm phát và lãi suất thấp và di chuyển cao hơn.
Khi Fed gần đến thời điểm tới hạn, chúng ta hãy xem xét các xu hướng đầu tư và rủi ro đối với thị trường khi các nhà đầu tư gần như “tất cả trong ck”.
Các CTCK, Quỹ và cơ quan quản lý theo dõi hành vi của nhà đầu tư thông qua vài công cụ chính như:
- Sở hữu cổ phiếu của nhà đầu tư
Khi Fed gần đến thời điểm tới hạn, chúng ta hãy xem xét các xu hướng đầu tư và rủi ro đối với thị trường khi các nhà đầu tư gần như “tất cả trong ck”.
Các CTCK, Quỹ và cơ quan quản lý theo dõi hành vi của nhà đầu tư thông qua vài công cụ chính như:
- Sở hữu cổ phiếu của nhà đầu tư
- Lượng tiền mặt trên tài khoản
- Mức margin (nợ ký quỹ)
Họ sẽ theo dõi trong khoảng thời gian 6 tháng liên tục để xem đường trung bình động có trơn tru không, có tập trung quá mức không...
Biểu đồ quyền sở hữu cổ phiếu cho chúng ta biết nhiều về hành vi của nhà đầu tư, nó có thể cho chúng ta biết rất nhiều về lợi nhuận kỳ hạn có thể xảy ra.
Khi các nhà đầu tư “tất tay”, sẽ có ít năng lượng hơn để đẩy giá cao hơn.
Khi các nhà đầu tư “tất tay”, sẽ có ít năng lượng hơn để đẩy giá cao hơn.
Với khoản nợ ký quỹ ở mức kỷ lục, danh mục nhà đầu tư được nạp vào cổ phiếu và khi nhà đầu tư bán cầu mua lấn át, các lệnh gọi ký quỹ bắt đầu và đòn bẩy bung ra - rất nhanh.
"Martinson đã trình bày một biểu đồ so sánh dòng vốn tương hỗ vốn chủ sở hữu với lợi nhuận trên S & P 500 một năm sau đó. Biểu đồ chỉ ra rằng dòng vốn chứng khoán là cao nhất ngay trước khi thị trường sụp đổ và dòng tiền ra khỏi quỹ cao nhất ngay trước khi thị trường hồi phục.
Dữ liệu cho thấy 170 tỷ đô la đã rời khỏi thị trường từ tháng 8 năm 2011 đến tháng 12 năm 2012, do đó, mất lợi nhuận trên 30% trong 12 tháng tiếp theo. Hành vi tất tay và bán tháo phân biệt tỷ lệ lợi nhuận cao từ hiệu suất tầm thường hoặc mất mát trong một thời gian dài."
"Martinson đã trình bày một biểu đồ so sánh dòng vốn tương hỗ vốn chủ sở hữu với lợi nhuận trên S & P 500 một năm sau đó. Biểu đồ chỉ ra rằng dòng vốn chứng khoán là cao nhất ngay trước khi thị trường sụp đổ và dòng tiền ra khỏi quỹ cao nhất ngay trước khi thị trường hồi phục.
Dữ liệu cho thấy 170 tỷ đô la đã rời khỏi thị trường từ tháng 8 năm 2011 đến tháng 12 năm 2012, do đó, mất lợi nhuận trên 30% trong 12 tháng tiếp theo. Hành vi tất tay và bán tháo phân biệt tỷ lệ lợi nhuận cao từ hiệu suất tầm thường hoặc mất mát trong một thời gian dài."
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét